Đồng chí Nguyễn Văn Cừ - Nhà lý luận và thực tiễn xuất sắc trong công tác xây dựng Đảng

Vũ Xuân Kiên

Nguyễn Văn Cừ - Tổng Bí thư thứ tư của Đảng, nhà chính trị tài năng, người chiến sĩ cộng sản kiên cường, nhà lý luận xuất sắc của Đảng, của cách mạng Việt Nam. Đồng chí là tấm gương sáng ngời về tinh thần tự phê bình và phê bình, có đóng góp quan trọng trong việc vạch ra chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ tiêu biểu cho thế hệ cán bộ rèn luyện, trưởng thành trong phong trào đấu tranh cách mạng; là đảng viên lớp đầu của Đảng Cộng sản Đông Dương đồng thời cũng là một trong những cán bộ đầu tiên của Đảng tham gia thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh của phong trào công nhân mỏ vùng Đông Bắc. Được tôi luyện trong các Nhà tù Hoả Lò, Côn Đảo, đồng chí đã cùng với các chiến sĩ cộng sản biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, tự trang bị cho mình lý luận cách mạng Mác - Lênin, trưởng thành cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất và trí tuệ, giữ trọng trách Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng khi mới 26 tuổi đời.

Đồng chí Nguyễn Văn Cừ - Nhà lý luận và thực tiễn xuất sắc trong công tác xây dựng Đảng.

Tấm gương sáng ngời về tinh thần tự học tập, nghiên cứu và vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin vào xây dựng Đảng

Ngay từ khi còn là một cậu thanh niên hiếu học với lòng yêu nước, sự nhạy cảm chính trị và nhiệt huyết cách mạng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã tiếp cận, nghiên cứu và thấm nhuần Chủ nghĩa Mác - Lênin, sớm trở thành hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng lập.

Cuối năm 1928, thực hiện chủ trương của Kỳ bộ Bắc kỳ, đồng chí Nguyễn Văn Cừ tham gia phong trào “vô sản hóa”(1) tại mỏ than Vàng Danh, Mạo Khê... (Quảng Ninh). Trong hoàn cảnh thực tiễn và phong trào hoạt động cách mạng bí mật hết sức khó khăn, song qua tiếp xúc với công nhân và nông dân đã tôi luyện người thanh niên yêu nước Nguyễn Văn Cừ trở thành người chiến sĩ cộng sản, nhà hoạt động cách mạng kiên cường. Đồng chí đã nhận thức được khả năng to lớn của giai cấp công nhân Việt Nam, giác ngộ, vận động họ đứng lên làm cách mạng. Với tinh thần vừa làm, vừa học, sự năng động, sáng tạo trong lý luận và thực tiễn, tư duy lí luận đến đâu áp dụng thực hành ngay vào thực tiễn đến đó, đồng chí đã tổ chức nhiều cuộc mít-tinh, kêu gọi công nhân đấu tranh. Tờ báo Than do Nguyễn Văn Cừ trực tiếp chỉ đạo, tham gia viết và là người biên tập chính đã được phát hành rộng rãi trong vùng, tuyên truyền rộng khắp trong quần chúng công nhân về Chủ nghĩa Mác - Lênin, động viên tinh thần và định hướng quần chúng đấu tranh. Tuy tờ báo có khổ nhỏ, in thủ công nhưng được công nhân lần lượt truyền tay nhau đọc. Các bài báo đã vạch trần thủ đoạn đàn áp, bóc lột của chủ mỏ, nói lên nỗi khổ cực hằng ngày của công nhân. Từ đó đã xây dựng nên ý chí quyết tâm lật đổ ách thống trị và tinh thần đoàn kết, đấu tranh của giai cấp công nhân. Sau hai năm “vô sản hóa”, Nguyễn Văn Cừ đã trở thành một cán bộ lãnh đạo chủ chốt của phong trào công nhân vùng mỏ. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ đảng do đồng chí thành lập, phong trào đấu tranh của công nhân mỏ bước vào thời kỳ mới, sôi nổi, rộng khắp với nhiều hình thức phong phú, hòa nhịp với cao trào cách mạng của cả nước.

Năm 1931, khi bị địch bắt, giam cầm, tra tấn tại nhà tù Côn Đảo, Nguyễn Văn Cừ đã cùng với các đồng chí của mình “biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng”. Chính tại nơi “địa ngục trần gian” này, Nguyễn Văn Cừ được tiếp cận các tác phẩm kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin như: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Hai sách lược của Đảng, Làm gì?, Những nguyên lý của chủ nghĩa Lê-nin, Tư bản…” và nhiều sách báo của Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Pháp. Được các đồng chí lớn tuổi hơn có nhiều kinh nghiệm và trình độ lý luận giúp đỡ, đồng chí đã nắm bắt được nhiều vấn đề lý luận, tiếp thu những quan điểm, nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin, từ đó nghiền ngẫm, đúc rút thành kinh nghiệm cho quá trình hoạt động thực tiễn của mình. Nguyễn Văn Cừ đã cùng với các đồng chí khác chép lại bản “Luận cương chính trị” và trực tiếp truyền thụ cho các đồng chí khác ngay tại Nhà tù Côn Đảo. Dù chưa có điều kiện nghiên cứu một cách hệ thống về phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhưng tinh thần quốc tế vô sản đã thể hiện rõ nét ngay từ khi đồng chí trở thành đảng viên cộng sản, “đồng chí Nguyễn Văn Cừ có nhiều bài viết sâu sắc kêu gọi những người cộng sản và các tầng lớp nhân dân lao động Việt Nam ủng hộ cách mạng Trung Quốc, Liên Xô, ủng hộ Liên Xô vào Hội Quốc liên, vận động giúp cách mạng Trung Quốc kháng Nhật”(2).

Có thể thấy, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã thể hiện tư chất của một người chiến sĩ cộng sản có tầm nhìn xa trông rộng, có quyết tâm và nghị lực lớn, có khả năng phân tích, khái quát, nhận định chính xác các vấn đề cách mạng trong nước và quốc tế, sớm định hình và khẳng định là một tài năng chính trị kiệt xuất của Đảng ta.

Người chiến sĩ cộng sản kiên trung, kiên quyết đấu tranh chống lại biểu hiện tả khuynh, giáo điều và chủ nghĩa cá nhân trong Đảng

Đồng chí Nguyễn Văn Cừ là người có tư duy lý luận sắc sảo, sáng tạo; nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn được đồng chí giải quyết một cách nhuần nhuyễn, phù hợp với thực tế Việt Nam. Nắm vững Chủ nghĩa Mác - Lênin; nắm vững quan điểm, tư tưởng trung tâm của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản; nắm vững thời cơ “đặc biệt thuận lợi để thành lập Mặt trận Nhân dân thống nhất phản đế rộng rãi ở Đông Dương”. Tại Hội nghị BCH Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 3-1938, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã đưa ra sáng kiến và được Hội nghị “quyết định thành lập Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương”, tập trung vào nhiệm vụ xây dựng mặt trận chống phát-xít.

Để tuyên truyền, vận động cách mạng, tập hợp đông đảo lực lượng quần chúng nhân dân, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm “Các quyền tự do dân chủ với nhân dân Đông Dương”. Đây là một tác phẩm lý luận chính trị quan trọng, trình bày những quan điểm cơ bản của Đảng về vấn đề tự do dân chủ, khẳng định bản chất tốt đẹp của tự do dân chủ XHCN, muốn phát triển phải giành được tự do dân chủ. Muốn được hưởng tự do dân chủ thì phải đoàn kết cùng nhau đấu tranh dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Tác phẩm đã phân tích đúng, trúng và có sức thuyết phục những vấn đề lý luận cơ bản, trên cơ sở đó giúp Đảng đưa ra những quyết sách chiến lược, sách lược trong thời kỳ đấu tranh đòi dân chủ.

Năm 1939, trước nguy cơ phát-xít và Chiến tranh thế giới lần thứ hai, thực dân Pháp trở mặt đàn áp phong trào dân chủ, những phần tử tờ-rốt-kít giả danh cách mạng cũng ra mặt chống phá Đảng. Trên cương vị Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã chỉ đạo và tiến hành một cuộc đấu tranh kiên quyết, sâu rộng trên mặt trận tư tưởng, lý luận, nhằm chống bọn tờ-rốt-kít và củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng.

Trên phương diện đấu tranh củng cố nội bộ, tháng 6-l939, trong thời kỳ Đảng còn hoạt động bí mật, với bút danh Trí Cường, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết và cho in cuốn “Tự chỉ trích”. Đây là một đóng góp quan trọng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ vào công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Lần đầu tiên trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, một đồng chí lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng đã thẳng thắn viết và khẳng định: “Người cộng sản có bổn phận nói sự thật với quần chúng, dẫn đường cho quần chúng chớ không phải theo đuôi hay phỉnh họ”(3). Và dù có sai lầm, có thất bại thì “phải có can đảm mở to mắt ra nhìn sự thật”(4). Phê phán những khuynh hướng sai lầm “thiên tả”, hoặc “thiên hữu” của một số cán bộ, đảng viên, “Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã cho rằng, đối với một đảng chính trị, việc mắc phải khuyết điểm, thậm chí sai lầm là khó tránh khỏi”(5). Điều quan trọng là Đảng phải biết tự phê bình, “công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những nhầm lỗi của mình và tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu, thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng, mà làm cho Đảng được thống nhất mạnh mẽ”(6).

Tác phẩm thể hiện tư duy sắc sảo của một lãnh tụ nhạy bén về chính trị; vừa tranh luận, vừa thuyết trình một cách sáng tỏ đường lối, chính sách của Đảng – chỉ ra những vấn đề cần xử lý trước mắt và lâu dài, giữa sách lược và chiến lược, củng cố bộ máy tổ chức của Đảng và niềm tin của quần chúng lúc bấy giờ.

Người chiến sĩ cách mạng đạo đức, trí tuệ với tinh thần tự giác phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, trưởng thành qua thực tiễn

Lựa chọn con đường hoạt động cách mạng từ khi còn rất trẻ, với ý chí niềm tin vững vàng và sự cố gắng không ngừng nghỉ ngay cả khi đã trở thành người lãnh đạo cao nhất của Đảng; xác định mục tiêu phấn đấu hy sinh lợi ích cá nhân vì tập thể, Nguyễn Văn Cừ đã dày công nghiên cứu, tôi luyện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, từ thực tiễn đúc rút thành những hiểu biết về lý luận chính trị. Càng vất vả, gian lao, hiểm nguy đồng chí càng phát huy trí tuệ, khả năng lý luận khoa học kết hợp một cách nhuần nhuyễn với hoạt động thực tiễn nhằm giải quyết đúng đắn những vấn đề cơ bản mà cách mạng đặt ra, nhất là trong những hoàn cảnh gay go, phức tạp. Trong cao trào vận động dân chủ (1936-1939), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách cụ thể trước mắt về dân sinh, dân chủ; quần chúng nhân dân được giác ngộ về chính trị, tham gia vào mặt trận dân tộc thống nhất và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện và ngày càng trưởng thành. Thành công đó có sự đóng góp không những về trí tuệ mà còn cả sức lực to lớn của đồng chí Nguyễn Văn Cừ.

Đồng chí đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhận thức và hành động, giữa lý luận với thực tiễn, góp phần cùng BCH Trung ương Đảng giải quyết đúng đắn những yêu cầu của cách mạng Việt Nam và Đông Dương đề ra. Trong hoàn cảnh khẩn trương phức tạp thời kỳ vận động dân chủ, Đảng ta gặp nhiều trở lực và khó khăn: Kẻ thù luôn luôn tìm cách đàn áp, bọn Tờ-rốt-kít khiêu khích phá hoại, nhiều đảng phái chính trị hoạt động, trong đó có đảng cách mạng, đảng theo xu hướng cải lương, đảng phản động... Các đảng tận dụng cơ hội đẩy mạnh hoạt động, tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng, một số cán bộ, đảng viên của Đảng bộc lộ những khuynh hướng sai lầm tả khuynh và hữu khuynh trong việc thực hiện chiến lược, sách lược cách mạng, trong nhận thức... Nhưng dưới sự vận động, lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng đấu tranh trên tất cả các mặt trận từ đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ; đấu tranh trên nghị trường; đấu tranh trên lĩnh vực báo chí cả công khai lẫn bí mật. Kết quả là Đảng đã vận động, giác ngộ đông đảo các tầng lớp nhân dân về con đường cách mạng của Đảng.

Trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã thể hiện rõ khả năng thuyết phục, cảm hoá mạnh mẽ, nêu tấm gương sáng về tinh thần tự phê bình trong Đảng. Sự nhạy cảm về chính trị của người lãnh đạo “biết cương”, “biết nhu” thể hiện rõ ở điểm: đối với kẻ thù và những phần tử phản động, phần tử Tờ-rốt-kít mưu toan phá hoại, chia rẽ nội bộ Đảng, đồng chí kiên quyết đấu tranh bác bỏ, không khoan nhượng; đối với cán bộ, đảng viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót đồng chí Nguyễn Văn Cừ luôn nhẹ nhàng chia sẻ, trao đổi thường xuyên, chân thành; phân tích vấn đề hợp tình, hợp lý góp phần đặt nền móng vào việc củng cố sự đoàn kết trong Đảng, phòng chống các biểu hiện suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên, góp phần phát triển con đường cách mạng Việt Nam.

Khí chất của người chiến sĩ cách mạng kiên trung không chỉ thể hiện ở những nỗ lực của đồng chí cả về xây dựng, chỉnh đốn, tăng cường đoàn kết trong nội bộ Đảng; xây dựng mối đoàn kết giữa Đảng với Nhân dân, giữa các tầng lớp nhân dân lao động với nhau mà còn thể hiện ở tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản. Điều này đã được thể hiện rõ nét ngay từ những năm 30 thế kỷ XX khi trở thành đảng viên cộng sản, đồng chí Nguyễn Văn Cừ có nhiều bài viết sâu sắc kêu gọi những người cộng sản và các tầng lớp nhân dân lao động Việt Nam ủng hộ cách mạng Trung Quốc, Liên Xô, ủng hộ Liên Xô vào Hội Quốc liên, vận động giúp cách mạng Trung Quốc kháng Nhật,... Những bài viết này thể hiện khả năng khái quát cao, tư duy độc lập và biện chứng về mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông Dương với cách mạng thế giới, những vấn đề cách mạng nóng bỏng trong nước và quốc tế, khẳng định tài năng chính trị của một nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và dân tộc ta.

Luôn coi trọng mối quan hệ gắn bó mật thiết với Nhân dân

Cả cuộc đời, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã cống hiến trọn vẹn cho sự nghiệp cách mạng, cho lý tưởng cao đẹp của Đảng và Nhân dân; một tấm gương điển hình để lại bài học cho thế hệ sau này với tư tưởng “Dân là gốc”. Đoàn kết gắn bó máu thịt với nhân dân. Bất kỳ ở đâu, giữa những người công nhân, phu mỏ vùng Đông Bắc hay bà con nông dân tận miệt vườn Nam Bộ, khi đi “vô sản hóa”, từ khi mới chỉ là đảng viên cho đến khi đã trở thành Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí luôn “gần dân”, “tin dân” hòa mình với nhân dân, coi trọng công tác vận động quần chúng. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ luôn toát lên phẩm chất của người cán bộ có đạo đức cách mạng trong sáng, chân thành, giản dị, gương mẫu trong cuộc sống; lối sống chan hoà, gần gũi với mọi người, có khả năng thuyết phục tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân đoàn kết, tin tưởng đi theo con đường cách mạng.

Giai đoạn 1936-1940 còn ghi dấu ấn của đồng chí Nguyễn Văn Cừ trong chỉ đạo phong trào cách mạng tại Sài Gòn - nơi Trung ương Đảng chọn là nơi đứng chân để chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước, cũng là nơi xuất bản công khai tờ báo của Đảng. Trong thời kỳ này, ảnh hưởng từ phong trào dân chủ tại Sài Gòn đã lan truyền đến cả vùng Nam Bộ, tờ báo Dân chúng của Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra đời. Sau khi dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ bảy trở về, BCH Trung ương họp Hội nghị (tháng 11-1936) xác định mục tiêu chủ yếu và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam lúc này là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống chủ nghĩa phát-xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Chủ trương của Đảng lúc này là tạm thời gác khẩu hiệu: “Đánh đổ đế quốc Pháp” và “Tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày”, thay vào đó là khẩu hiệu: “Tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình” để phù hợp với tình hình lúc bấy giờ. Phương pháp đấu tranh lúc này của Đảng là kết hợp nhuần nhuyễn giữa hình thức công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp, bán hợp pháp với đấu tranh bí mật tại ngay các thành phố lớn.

Thời kì đầu mới thành lập tờ báo Dân chúng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã chỉ đạo và trực tiếp viết một số bài có tính chất định hướng lớn các nhiệm vụ của Đảng. Số đầu tiên báo Dân chúng ra vào ngày 22-7-1938 không có giấy phép của nhà cầm quyền, nhưng báo của Đảng ra công khai giữa Sài Gòn được nhân dân đón đọc. Từng bước đi sâu vào đời sống nhân dân lao động, sau một năm họat động, báo Dân chúng đã dùng những bài viết đầy tính chiến đấu để đả kích chính sách cai trị của bọn đế quốc, thực dân Pháp gây nên những chết chóc, khổ cực cho nhân dân các nước thuộc địa. Qua một năm, báo Dân chúng đã truyền tải lý luận, đường lối quan điểm, chính sách cách mạng của Đảng ta đến từng ngõ hẻm, mái nhà của các tầng lớp nhân dân lao động; khơi dậy lòng yêu nước, niềm tin cách mạng, căm thù chế độ bóc lột tay sai; từng bước tạo động lực, cổ động và tổ chức quần chúng đấu tranh thực hiện các khẩu hiệu dân chủ và chống chiến tranh phát-xít; đấu tranh chống bọn Tờ-rốt-kít; cổ vũ Mặt trận Dân chủ Đông Dương, ủng hộ Mặt trận Dân chủ đấu tranh chống chủ nghĩa phát-xít, đặc biệt là Tây Ban Nha, Trung Quốc, ủng hộ Liên bang Xô-viết, ủng hộ Mặt trận bình dân Pháp… đồng thời phê phán chính sách cai trị của bọn đế quốc, thực dân Pháp đã và đang gây ra. Trong hơn một năm tồn tại, Báo Dân chúng ra được tất cả 80 số, là tờ báo được vinh dự đăng bài đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cho báo trong nước trong thời kỳ vận động dân chủ; là tờ báo in với số lượng cao nhất, có nhiều bạn đọc nhất trước Cách mạng Tháng Tám 1945.

Nhà lý luận chính trị xuất sắc luôn đề cao các nguyên tắc xây dựng Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tự phê bình và phê bình

Tại Hội nghị BCH Trung ương Đảng tháng 3-1938, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Tại Hội nghị này đồng chí đưa vấn đề lập Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương (gọi tắt là Mặt trận Dân chủ), coi đó là nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn mới. Trung ương Đảng ta đề ra chủ trương Mặt trận Dân chủ có nhiệm vụ: Liên hiệp các tầng lớp nhân dân và lực lượng cải cách dân chủ tiến bộ, không phân biệt giai cấp, đảng phái, tôn giáo, dân tộc… để chống phản động thuộc địa, phát-xít, đòi tự do, cơm áo, hoà bình. Chủ trương do đồng chí Nguyễn Văn Cừ đưa ra đã được Trung ương Đảng hoàn toàn tán thành và tích cực triển khai thực hiện, đưa phong trào đấu tranh quần chúng tiến thêm một bước, đây là thời gian Đảng tranh thủ thời gian để củng cố các cơ sở cách mạng.

Những chủ trương sáng tạo nói trên được phân tích và phát triển trong tác phẩm “Tự chỉ trích” của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ với bút danh Trí Cường. Trong nội dung tác phẩm có viết: “…Người Bôn-sơ-vích chân chính biết trọng uy tín của Đảng, coi nó là cốt yếu luôn làm cho nó tăng gia… người đảng viên cộng sản chỉ biết lấy uy tín lấy danh dự chung của toàn Đảng làm danh dự của mình thôi”(7). Những nguyên tắc cơ bản về tự phê bình của Đảng; những chính sách của Đảng trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ; đấu tranh chống những nhận thức, tư tưởng sai trái để giữ vững và phát huy truyền thống đoàn kết nhất trí của Đảng đã được đồng chí thẳng thắn đưa ra.

Trong xây dựng Đảng, theo những nguyên tắc ấy, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho rằng “Bao giờ sự chỉ trích cũng là tự chỉ trích Bôn-sơ-vích, nghĩa là huấn luyện quần chúng và giúp đảng viên tự huấn luyện, để làm tăng uy tín và ảnh hưởng của Đảng, để cho Đảng được càng thống nhất và củng cố, để đưa phong trào phát triển lên, đưa cách mạng tới thắng lợi; chớ không phải đặt cá nhân mình lên trên Đảng, đem ý kiến riêng - dù cho đúng - đối chọi với Đảng, vin vào một vài khuyết điểm mà mạt sát Đảng, phá hoại ảnh hưởng của Đảng, gieo mối hoài nghi, lộn xộn trong quần chúng, gây mầm bè phái, chia rẽ trong hàng ngũ Đảng”(8).

Và đồng chí khẳng định: Sự chỉ trích của người cách mạng phải là để tìm tòi những lỗi lầm của mình, nghiên cứu phương pháp để sửa đổi, để tiến lên và phải “đứng về lợi ích công cuộc của dân chúng mà chỉ trích những khuyết điểm, những chỗ lừng chừng hoặc hèn nhát để đẩy phong trào phát triển mạnh mẽ rộng rãi hơn”(9). Về vấn đề phê bình lẫn nhau Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ nhấn mạnh: Mỗi đảng viên có quyền tự do thảo luận, tự do chỉ trích miễn là sự thảo luận luôn theo tinh thần Bôn-sê-vích, không làm giảm uy tín của Đảng…

Những quan điểm, lời tâm huyết về “Tự phê bình và phê bình” của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ trong “Tự chỉ trích” đến nay vẫn còn tính thời sự sâu sắc, cần được vận dụng trong tổ chức kiểm điểm tự phê bình và phê bình trong các cơ quan, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên; vận dụng sáng tạo trong công cuộc cách mạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta hiện nay.

Giá trị lý luận và thực tiễn trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị hiện nay

Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh đồng chí Nguyễn Văn Cừ đúng vào dịp toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang ra sức phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và các nghị quyết, kết luận gần đây của Trung ương nhằm “nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện… phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(10).

Trong những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó dự báo; dịch bệnh COVID-19 dự báo tiếp tục kéo dài; xung đột vũ trang và khủng hoảng năng lượng ngày càng trầm trọng. Sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, vị thế, sức mạnh tổng hợp và uy tín trên trường quốc tế được nâng lên. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn; các mối đe dọa độc lập, chủ quyền, lợi ích chiến lược của đất nước, nhất là trên biển Đông; vấn đề an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, cạn kiệt tài nguyên, xu hướng già hóa dân số; tình trạng suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch và các tổ chức phản động… tình hình nêu trên sẽ tác động mạnh đến công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo đất nước phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới.

Trong thời gian tới, nhằm củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện cần tập trung vào những phương hướng cụ thể đã được chỉ ra:

Một là, tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

Kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hoá. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Kiên định đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bảo đảm nhanh, bền vững đi liền với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.

Tiếp tục đổi mới toàn diện, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; bảo đảm cho bản chất giai cấp công nhân của Đảng luôn giữ vững. Tiến hành quán triệt và phổ biến sâu rộng nội dung Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị “về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh". Không ngừng nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu, tinh thần “tự soi”, “tự sửa” của toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, nhất là cấp chiến lược; tích cực đấu tranh, phản bác có hiệu quả quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, âm mưu “diễn biến hoà bình” chống phá Đảng, Nhà nước, lợi dụng việc xử lý tham ô, tham nhũng của một số cán bộ đảng viên thoái hoá, suy đồi đạo đức, chính trị mà công kích, phủ định sạch trơn, chống phá mọi thành quả mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã gây dựng. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống có hiệu quả chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ, bè phái, những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Hai là, tiếp tục đổi mới, tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Gắn bó chặt chẽ và thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các mặt công tác quan trọng: tư tưởng - tổ chức - cán bộ cùng với việc bảo đảm tính đảng, tính cách mạng trong mỗi mặt công tác, không tuyệt đối hoá cũng như xem nhẹ bất kì mặt công tác nào. Kết hợp giữa xây và chống, lấy xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài. Tăng cường giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng; tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước gắn với đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, hành động trong Đảng và nhân dân. Đổi mới và triển khai đồng bộ việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với đấu tranh ngăn chặn, đầy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, nói không đi đôi với làm trong cán bộ, đảng viên.

Kiên quyết, kiên trì thực hiện Kết luận số 21-KL/TW Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương khoá XIII  về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ để ngăn chặn, đầy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng. Thực hiện tốt các quy định về chức trách nêu gương của cán bộ, đảng viên.

Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của đảng. Kiện toàn TCCSĐ phù hợp với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, nhất là bí thư cấp ủy.

Ba là, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội.

Tổ chức quán triệt sâu rộng nội dung Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá XIII) về “Tăng cường củng cố, xây dựng TCCSĐ và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong tình hình mới” nhằm tạo sự tiến bộ mới, thực chất, mạnh mẽ, hiệu quả, nâng cao hơn nữa chất lượng, sức mạnh và tính chiến đấu của Đảng. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng, lòng yêu nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, nhân sinh quan cách mạng cho đảng viên, đặc biệt là đảng viên trẻ. Nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên, chú trọng phát hiện, bồi dưỡng kết nạp vào Đảng những đoàn viên ưu tú, trưởng thành trong lao động, học tập, trong lực lượng vũ trang; có nghị lực, cống hiến tài năng, trí tuệ vì cộng đồng. Đẩy mạnh phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng đảng viên ở miền núi, biên giới, hải đảo theo phương châm ở đâu có dân ở đó có đảng viên.

Tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên; gắn liền công tác bồi dưỡng, phát triển đảng viên với thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng bảo đảm làm trong sạch bộ máy của Đảng. Thường xuyên rà soát, đổi mới, đơn giản hóa quy trình, thủ tục và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác.

Bốn là, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ đảng viên, tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, cùng cố và không ngừng nâng cao niềm tin của Nhân dân đối với Đảng.

Kiện toàn TCCSĐ phù hợp với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; nâng cao chất lượng hoạt động, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở, nhất là ở xã, phường, thị trấn, các vùng sâu, vùng xa, vùng trọng yếu về kinh tế, chính trị, văn hoá. Nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Tăng cường đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị; tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân; thực hiện tốt phong trào thi đua dân vận khéo. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa chính quyền, các cơ quan, tổ chức với MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp.

Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và kiểm soát chặt chẽ quyền lực, phòng chống tham nhũng, lãng phí.

Tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của toàn Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Xây dựng và hoàn thiện quy định, quy chế, quy trình để siết chặt kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Triển khai thực hiện đồng bộ, sâu rộng, có hiệu quả các nội dung nghị quyết, kết luận tại Hội nghị Trung ương 5 (khoá XIII). Triển khai thực hiện Kết luận số 12-KL/TW ngày 6-4-2022 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực”.

Triển khai các giải pháp đồng bộ, thực hiện có hiệu quả Kết luận số 34-KL/TW ngày 18-4-2022 của Bộ Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030. Nâng cao khả năng dự báo về những hành vi vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ để đề ra các chủ trương, biện pháp phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm từ sớm, từ xa.

Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp, coi trọng giám sát theo chuyên đề. Chủ động nắm chắc tình hình hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp, các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị để ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm.

Có thể thấy, học tập tấm gương đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh chính trị và tư duy sáng tạo của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, mỗi cán bộ, đảng viên cần luôn nêu cao ý chí cách mạng, tự giác phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của người cộng sản, kiên trì học tập, nâng cao nhận thức, trình độ mọi mặt, tích cực hoạt động thực tiễn, đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng và Nhân dân lên trên hết, trước hết, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp vẻ vang của Đảng, của dân tộc. Học tập và noi gương đồng chí Nguyễn Văn Cừ, cần tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, tham nhũng, bè phái, cục bộ, những thói hư tật xấu; xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân, lãnh đạo toàn dân ra sức thi đua đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và các nghị quyết, kết luận của BCH Trung ương Đảng, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước trên con đường XHCN.

----------------------------

(1) Ban Tuyên giáo Thành uỷ TP. Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc với việc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Trang tin điện tử Đảng bộ TP. Hồ Chí Minh, ngày 8-6-2021. Từ năm 1925 đến tháng 4-1927, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp huấn luyện chính trị cho 75 học viên tại Trung Quốc. Sau đó phần lớn được đưa về nước hoạt động tuyên truyền lý luận cách mạng và xây dựng tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, sự nỗ lực của các hội viên được cử về nước hoạt động, hệ thống tổ chức của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nhanh chóng bắt rễ, phát triển trên phạm vi cả nước. Phong trào “vô sản hóa” do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên xây dựng và tổ chức đã tích cực đưa hội viên vào các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, nông thôn để rèn luyện, học tập nâng cao lập trường giai cấp công nhân, đồng thời truyền bá lý luận Mác - Lênin, đường lối cách mạng đúng đắn vào phong trào công nhân, giác ngộ họ, tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện cho sự ra đời của Đảng.

(2) Nguyễn Đắc Thu, Tài liệu tuyên truyền Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ (9-7-1912 - 9-7-2022), Trang điện tử Trường Chính trị Nguyễn Văn Cừ - Bắc Ninh, 2022.

(3), (4), (6), (7), (8), (9) Nguyễn Văn Cừ, Tự chỉ trích, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2013, tr.43; tr.19; tr.6; tr.11-12; tr.13-14; tr.39.

(5) Nguyễn Phú Trọng, Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt để phát triển đất nước, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2017, tr.201.

(10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2021, tập II, tr.326.

Nguyễn Văn Tuân (Viện Khoa học Tổ chức, cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương)
Nguyễn Phạm Thanh Tùng (Trường Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng)
Theo Tạp chí Xây dựng Đảng