FTA Việt Nam-Israel: Mở cánh cửa cho hàng Việt Nam thâm nhập thị trường Trung Đông

Vũ Xuân Kiên
Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam-Israel (VIFTA) được đánh giá là FTA quan trọng, mở ra cơ hội cho hàng hóa Việt Nam không chỉ tiếp cận thị trường Israel mà còn thâm nhập vào thị trường Trung Đông rộng lớn.

Cơ hội lớn cho hàng Việt Nam

Là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, song thời gian qua, xuất khẩu thủy sản đang gặp nhiều khó khăn và suy giảm hơn 27% so cùng kỳ năm 2022. Do đó, VIFTA được ký kết được đánh giá có ý nghĩa lớn với doanh nghiệp thủy sản.

Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) lý giải, trong cơ cấu xuất khẩu thủy sản, thị trường Isarel mặc dù chiếm tỷ trọng chưa nhiều nhưng đây là một thị trường rất tiềm năng bởi Israel là thị trường có sức mua, khả năng thanh toán cao. Bên cạnh đó, Israel là nước không có nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực lao động trong nước hạn chế, dù là nước nhỏ nhưng nhu cầu tiêu dùng khá lớn. Bởi vậy, thị trường này còn nhiều dư địa để các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam có thể khai thác hiệu quả.

fta-vn-israel-1-4879-1690428077.jpg
Thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang Israel.

Các thống kê cho thấy, hằng năm, Israel thuộc trong top 22 thị trường hàng đầu trong số hơn 100 thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường này gồm tôm, mực đông lạnh, cá ngừ đóng hộp, cá tra…

Trong đó, năm 2022, xuất khẩu cá ngừ sang Israel đạt 36,63 triệu USD và Israel đứng thứ 4 trong số 10 thị trường nhập khẩu cá ngừ lớn nhất của Việt Nam (sau Mỹ, Canada và Nhật Bản); xuất khẩu mực đông lạnh sang thị trường này đạt 23,22 triệu USD, chiếm tỷ trọng 1,7%.

Israel đứng thứ 8 trong số 10 thị trường nhập khẩu mực và bạch tuộc hàng đầu của Việt Nam; xuất khẩu tôm đông lạnh sang Israel đạt khoảng 21 triệu USD và Israel đứng thứ 20.

“Thêm vào đó, các mặt hàng thủy sản của Việt Nam tại Israel hiện đã có chỗ đứng ổn định và được người tiêu dùng quốc gia này ưa chuộng, đánh giá cao. Chính vì thế, theo lộ trình giảm thuế mà Hiệp định này đưa ra sẽ tạo thuận lợi lớn cho doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản. Đáng lưu ý, không chỉ tại thị trường Israel, dự kiến VIFTA được ký kết còn mở ra cơ hội hợp tác với khu vực Trung Đông đầy tiềm năng thông qua cửa ngõ Các Tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE)”, ông Trương Đình Hòe kỳ vọng.

Thông tin từ Bộ Công thương, ngày 25/7/2023, tại Israel, Bộ trưởng Công thương Nguyễn Hồng Diên đã cùng Bộ trưởng Kinh tế và Công nghiệp Israel Nir Barkat ký kết Hiệp định VIFTA.

Hiệp định VIFTA được khởi động đàm phán trong bối cảnh quan hệ song phương giữa Việt Nam ngày càng phát triển tốt đẹp, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế-thương mại. Việc VIFTA được ký kết đánh dấu thành quả nỗ lực không mệt mỏi của cả hai nước sau quãng thời gian 7 năm với 12 phiên đàm phán và càng có ý nghĩa trong bối cảnh hai nước đang tiến hành nhiều hoạt động thiết thực nhân dịp kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.

Israel là quốc gia đầu tiên tại khu vực Tây Á mà Việt Nam ký kết FTA và Việt Nam cũng là quốc gia đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á mà Israel ký kết FTA.

Đây là hiệp định được các chuyên gia đánh giá rất cao. PGS,TS Đinh Trọng Thịnh nhận định, VIFTA có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, bởi lẽ, đây là quốc gia có trình độ công nghệ rất phát triển. Họ cũng là quốc gia đang cần rất nhiều các sản phẩm làm nguyên liệu cho sản xuất kinh doanh cũng như lương thực phẩm, thực phẩm.

Trong khi đó Việt Nam là nước sản xuất chính các sản phẩm nông nghiệp. Việc ký kết và triển khai thực hiện Hiệp định VIFTA sẽ tạo tiền đề thuận lợi để Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh sang Israel; đồng thời có cơ hội tiếp cận các mặt hàng công nghệ cao của Israel, góp phần làm giảm chi phí sản xuất, kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.

Việt Nam và Israel có nền kinh tế bổ sung cho nhau. VIFTA là một bước đi chiến lược của cả hai quốc gia, hứa hẹn sẽ thúc đẩy thương mại song phương và thắt chặt quan hệ kinh tế, cung cấp cho các doanh nghiệp ở cả hai quốc gia khả năng tiếp cận tốt hơn với thị trường của nhau và hơn thế nữa, tạo ra lợi ích đôi bên cùng có lợi.

PGS,TS Ngô Trí Long chia sẻ thêm: “Vì điều kiện thiên nhiên của Israel rất khó khăn, cho nên hoạt động thương mại của họ chủ yếu là nhập khẩu, đặc biệt là các mặt hàng tiêu dùng. Theo số liệu được công bố, hằng năm, Israel nhập khẩu khoảng 35 tỷ USD đối với mặt hàng tiêu dùng. Trong khi đó, ngành hàng này lại là một trong những thế mạnh của Việt Nam. Đồng thời, Việt Nam cũng cần tạo ra những điều kiện để có thể tận dụng thế mạnh tri thức của họ, hay những kỹ thuật công nghệ cao mà Việt Nam có nhu cầu. Đây có thể coi là cơ hội cho chúng ta vừa xuất khẩu và vừa nhập khẩu”.

Hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam với Israel đang có xu hướng tăng. Nếu như năm 2020 kim ngạch xuất nhập khẩu là gần 2 tỷ USD, đến năm 2021 tăng lên 2,3 tỷ USD, thì năm 2022 đã lên đến 2,6 tỷ USD và xu hướng trong năm nay sẽ tăng nữa. VIFTA dự kiến sẽ mở rộng cơ hội xuất khẩu hơn nữa cho hàng Việt Nam sang Israel.

fta-vn-israel-2-9794-1690428062.jpg
Doanh nghiệp xuất khẩu rau quả cần chú ý đến các tiêu chuẩn của thị trường.

Tìm giải pháp tận dụng tốt VIFTA

Bày tỏ kỳ vọng lớn với VIFTA, song ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam cũng chỉ rõ, Israel là thị trường quy củ, bài bản và có tiêu chuẩn cao. Do đó, khi làm ăn tại Israel, doanh nghiệp cần nắm được đầy đủ quy định, tập tục làm ăn của quốc gia và doanh nghiệp đối tác, tránh tâm lý “ăn xổi”.

Mặc dù tiêu chuẩn thị trường của Israel không quá khắt khe như Mỹ hay EU nhưng các doanh nghiệp Việt Nam cần xác định vẫn phải đáp ứng các tiêu chuẩn của người mua hàng. Với trái cây tươi, ít nhất phải có tiêu chuẩn Global Gap. Với thực phẩm chế biến cần chú ý đến một số tiêu chuẩn đặc thù như Chứng nhận Kosher - tiêu chuẩn về thực phẩm của người Do Thái. Chứng nhận Kosher không phải là yêu cầu pháp lý để nhập khẩu thực phẩm vào Israel, tuy nhiên, sản phẩm không theo tiêu chuẩn Kosher có thị phần nhỏ hơn tại Israel. Hầu hết siêu thị, khách sạn từ chối sử dụng sản phẩm không có chứng nhận này.

Ngoài ra, đây cũng là một thị trường xa, do đó, khi xuất khẩu vào đây, doanh nghiệp phải có công nghệ bảo quản phù hợp để bảo đảm chất lượng sản phẩm.

PGS,TS Ngô Trí Long nêu vấn đề, mỗi một FTA sẽ đem lại những cơ hội và thách thức khác nhau cho doanh nghiệp. Với VIFTA, thách thức ở đây là về năng lực cạnh tranh. Do đó để tận dụng VIFTA một cách có hiệu quả doanh nghiệp Việt cần lưu ý một số vấn đề:

Thứ nhất, doanh nghiệp phải chủ động trong vấn đề tìm hiểu những cơ chế, chính sách, thị trường, những rào cản thương mại để từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần chủ động trong xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường.

Thứ hai, các doanh nghiệp Việt hoạt động phải chuyên nghiệp hơn. Bởi, Israel là một đối tác có năng lực cạnh tranh lớn, có điều kiện tốt, nếu chúng ta không chuyên nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu thì sẽ khó tiếp cận với họ. Hơn hết, khoa học kỹ thuật của Israel rất phát triển, cho nên những mặt hàng tiêu dùng mà Việt Nam xuất khẩu sang phải chú ý nâng cao chất lượng, đặc biệt vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Do đó, doanh nghiệp phải chủ động trong những vấn đề này.

“Lời khuyên để doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng được cơ hội VIFTA một cách có hiệu quả sẽ có hai vấn đề quan trọng. Một là doanh nghiệp phải chủ động tiếp cận thị trường và hai là phải có tính chuyên nghiệp trong xuất nhập khẩu”, PGS,TS Ngô Trí Long chỉ rõ.