Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu viên nén của Việt Nam đã tăng lần lượt là 28 và 34 lần trong hơn 10 năm qua, kể từ năm 2013. Năm 2022 Việt Nam đã xuất khẩu 4,9 triệu tấn viên nén, kim ngạch đạt 0,79 tỷ đô-la Mỹ. Trong những tháng đầu năm 2023, lượng xuất khẩu đạt 1,57 triệu tấn, kim ngạch đạt khoảng hơn 256 triệu USD.
Xuất khẩu hiện đang trên đà tăng. Nhu cầu tiêu thụ viên nén trên thế giới dự báo sẽ tăng khoảng 250% trong thập kỷ tới, đạt con số 36 triệu tấn từ mức 14 triệu tấn cách đây 6 năm, tính từ năm 2017. Trong những năm vừa qua, nhu cầu tiêu thụ viên nén tăng chủ yếu tại Nhật Bản, Hàn Quốc và các các nước châu Âu.
Theo các chuyên gia phân tích của tổ chức Forest Trends (tổ chức phi lợi nhuận nhằm thúc đẩy bảo tồn và quản lý rừng bền vững), lượng viên nén từ Việt Nam xuất khẩu vào hai thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc hiện chiếm khoảng 95% trong tổng lượng viên nén xuất khẩu từ Việt Nam vào tất cả các thị trường.
Sự khác biệt về nguồn gỗ nguyên liệu sản xuất viên nén xuất khẩu sang Hàn Quốc và Nhật Bản bao gồm: viên nén xuất Hàn Quốc chủ yếu làm từ gỗ phụ phẩm của ngành chế biến đồ gỗ như mùn cưa, dăm bào, đầu mẩu gỗ thừa.
Các doanh nghiệp viên nén xuất khẩu đi Hàn Quốc chủ yếu nằm ở vùng Đông Nam Bộ, nơi tập trung các nhà máy sản xuất đồ gỗ. Viên nén xuất khẩu đi Nhật Bản đòi hỏi nguồn nguyên liệu gỗ là rừng trồng trong nước, có chứng chỉ FSC. Nguyên liệu này chỉ có ở những nơi tập trung nhiều các diện tích rừng trồng của Việt Nam, đặc biệt là từ vùng miền trung trở ra phía bắc.
Bắt đầu từ quý 2 năm 2022, thị trường xuất khẩu của đồ gỗ suy giảm. Các phụ phẩm của ngành làm nguyên liệu sản xuất viên nén cũng giảm theo, đã tạo ra sự thiếu hụt nguồn cung nguyên liệu cho viên nén xuất khẩu sang Hàn Quốc.
Khủng hoảng năng lượng do xung đột Nga- Ukraine làm nhu cầu và giá viên nén tại thị trường thế giới tăng rất mạnh. Điều này hình thành làn sóng đầu tư vào sản xuất viên nén không chỉ ở Việt Nam mà còn cả ở các quốc gia khác.
Làn sóng này làm tăng sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp viên nén tại Việt Nam và giữa các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp tại các nước khác như Malaysia, Thái Lan và Indonesia.
Đầu năm 2023, thị trường Hàn Quốc có biến động mạnh. Giá viên nén xuất khẩu vào nước này từ Việt Nam rớt xuống dưới 90 USD/tấn (FOB) vào tháng 4, dưới mức giá thành sản xuất của nhiều doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô nhỏ phải dừng hoạt động.
Sáu tháng đầu năm 2023, lượng viên nén của Việt Nam xuất khẩu đi Hàn Quốc đạt khoảng 0,8 triệu tấn. Dự kiến đến hết năm 2023, lượng xuất của Việt Nam vào thị trường này sẽ đạt khoảng 1-1,5 triệu tấn. Việt Nam là nguồn cung viên nén chính cho Hàn Quốc (chiếm 80% trong tổng nhu cầu sử dụng của thị trường này). Tuy nhiên, hiện nay Hàn Quốc đang đa dạng hóa nguồn cung, bao gồm cả nguồn nhập khẩu từ Nga.
Theo một số doanh nghiệp, viên nén từ Nga có chất lượng tốt, giá rẻ. Trước khi xung đột Nga - Ukraine nổ ra mỗi năm Nga xuất khẩu khoảng 3 triệu tấn viên nén ra thế giới, chủ yếu là vào khối EU. Tuy nhiên, do xung đột, Nga hiện đang chịu lệnh trừng phạt từ các nước phương Tây và các doanh nghiệp viên nén của Nga gặp khó khăn trong khâu xuất khẩu. Trong bối cảnh này, một số doanh nghiệp Nga phải tìm thị trường thay thế, chấp nhận mức giá xuất khẩu rẻ để thâm nhập thị trường. Tuy nhiên, dự kiến sẽ không có sự gia tăng đột biến về lượng viên nén nhập khẩu từ Nga vào Hàn Quốc trong tương lai. Lý do là lệnh trừng phạt áp dụng đối với các mặt hàng xuất khẩu của Nga làm các công ty năng lượng thuộc sở hữu nhà nước và các tập đoàn lớn có tên tuổi của Hàn Quốc từ chối sử dụng viên nén từ nguồn này. Hiện chỉ có một số nhà máy điện có quy mô nhỏ, thuộc sở hữu tư nhân tại Hàn Quốc sử dụng nguồn cung viên nén từ Nga. Do đó, tiềm năng mở rộng thị phần viên nén Nga tại Hàn Quốc không lớn.
Những tháng đầu năm 2023, mức giá biến động rất lớn đối với viên nén Việt Nam xuất khẩu vào Hàn Quốc. Điều này làm cho một số doanh nghiệp viên nén Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ không có tiềm lực về tài chính phải ngừng sản xuất.
Nhằm giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu, Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam (Viforest) đã có một số hoạt động thiết thực, bao gồm cả việc kết nối với các doanh nghiệp tại Hàn Quốc nhằm cung cấp thêm thông tin về thực trạng sản xuất. Kể từ sau đó, mức giá xuất khẩu bắt đầu tăng dần. Mức giá tại thời điểm đầu tháng 7 đạt khoảng 110 USD/tấn..
Thị trường Nhật Bản có tính ổn định hơn nhiều so với Hàn Quốc, với các đơn hàng dài hạn (hợp đồng mua bán thường từ 10 đến 15 năm) hiện được xuất đạt mức giá dao động khoảng 145-165 USD/tấn (FOB Việt Nam). Bên cạnh các hợp đồng dài hạn, một số doanh nghiệp Nhật Bản cũng thực hiện các hợp đồng ngắn hạn với một số nhà cung ứng Việt Nam. Giá các hợp đồng ngắn hạn thường thấp hơn giá của các hợp đồng dài hạn (hiện ở mức khoảng 125 USD/tấn, FOB), với chất lượng tương đương với sản phẩm xuất theo các hợp đồng dài hạn.
Tính đến nay, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 1 triệu tấn viên nén vào Nhật Bản. Toàn bộ lượng viên nén xuất khẩu đi Nhật đòi hỏi phải có chứng chỉ FSC. Nguyên liệu cho viên nén xuất khẩu đi Nhật là từ nguồn gỗ rừng trồng trong nước, chủ yếu là từ cây keo. Nguồn nguyên liệu này khác với nguồn nguyên liệu tạo viên nén xuất khẩu đi Hàn Quốc.
Theo Tiến sĩ Tô Xuân Phúc, chuyên gia của tổ chức Forest Trends, nhu cầu viên nén tại Nhật Bản sẽ tăng mạnh trong tương lai. Thông tin từ một số doanh nghiệp cho biết, hiện mỗi năm Nhật Bản sử dụng khoảng 8 triệu tấn viên nén, trong đó 40-50% là vỏ hạt cọ dầu, phần còn lại (50-60%) là viên nén từ gỗ. Dự kiến đến năm 2030, nhu cầu viên nén tại Nhật Bản sẽ tăng lên 20 triệu tấn, trong đó lượng viên nén gỗ sẽ chiếm khoảng 13-15 triệu tấn (còn lại là hạt cọ dầu). Đây là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt các doanh nghiệp có nguồn nguyên liệu đầu vào ổn định và có chứng chỉ bền vững, có nhà máy sản xuất quy mô, quản lý bài bản.
Dự báo trong những tháng cuối năm 2023, tình hình sản xuất và xuất khẩu viên nén của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng. Cạnh tranh về nguồn nguyên liệu để sản xuất viên nén xuất khẩu cũng sẽ tăng theo, bởi thị trường đầu ra xuất khẩu của các mặt hàng gỗ chưa có tín hiệu hồi phục.