Thị trường nông sản: Xuất khẩu gạo đạt kỷ lục với 4,78 tỷ USD

Vũ Xuân Kiên
Giá lúa khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tuần qua tiếp tục có sự tăng nhẹ. Khép lại năm 2023, giá trị xuất khẩu gạo đã đạt kỷ lục với 4,78 tỷ USD, tăng 38,4% so với năm 2022.
kinh-te-4-1704035998.jpg
Thu hoạch lúa trên cánh đồng liên kết sản xuất của Tập đoàn Lộc Trời ở tỉnh An Giang. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)

Giá lúa khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tuần qua tiếp tục có sự tăng nhẹ. Khép lại năm 2023, giá trị xuất khẩu gạo đã đạt kỷ lục với 4,78 tỷ USD, tăng 38,4% so với năm 2022.

Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá lúa thường tại ruộng tuần qua cao nhất là 9.300 đồng/kg, giá bình quân là 9.179 đồng/kg, tăng 86 đồng/kg. Giá lúa thường tại kho tăng trung bình 96 đồng/kg, ở mức 10.496 đồng/kg; giá cao nhất là 11.150 đồng/kg.

Giá các mặt hàng gạo có sự điều chỉnh tăng nhẹ. Theo đó, gạo 5% tấm có giá cao nhất 15.600 đồng/kg, giá bình quân 15.457 đồng/kg, tăng 21 đồng/kg. Gạo 15% tấm có giá cao nhất 15.350 đồng/kg, giá bình quân 15.250 đồng/kg, tăng 17 đồng/kg. Gạo 25% tấm có giá cao nhất 15.150 đồng/kg, giá bình quân 14.967 đồng/kg, tăng 33 đồng/kg.

Giá gạo xát trắng loại 1 tăng 113 đồng/kg, giá trung bình là 15.988 đồng/kg. Gạo lứt loại 1 tăng 192 đồng/kg, trung bình là 13.808 đồng/kg. Tấm 1/2 tăng với mức 146 đồng/kg, cao nhất là 12.900 đồng/kg, trung bình là 11.725 đồng/kg.

Tại An Giang, theo cập nhật của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, giá các loại lúa hầu hết vẫn giữ ổn định như: Đài thơm 8 từ 9.600-9.800 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg; OM 18 cũng ở mức từ 9.600-9.800 đồng/kg, cũng tăng 200 đồng/kg; OM 5451 từ 9.500-9.700 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg. Một số loại vẫn giữ ổn định như: Nàng Hoa 9 giá từ 9.500-9.600 đồng/kg, IR 50404 từ 8.900-9.100 đồng/kg, lúa Nhật từ 7.800-8.000 đồng/kg.

Với mặt hàng gạo trên thị trường bán lẻ tại An Giang, gạo thường có giá từ 15.000-16.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài từ 19.000-20.000 đồng/kg; gạo Jasmine từ 17.500-19.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg, gạo Nàng Hoa 19.500 đồng/kg.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, năm 2023, sản lượng lúa cả nước. đạt 43,4 triệu tấn, tăng 1,7% so với năm 2022. Giá trị xuất khẩu gạo đã đạt kỷ lục với 4,78 tỷ USD, tăng 38,4% so với năm 2022.

Tuần qua, giá gạo 5% tấm của Việt Nam đứng ở mức 653 USD/tấn, giảm so với mức 660-665 USD/tấn của tuần trước. Giá loại gạo này ước đạt mức tăng theo năm là 44% trong năm nay.

Một nhà giao dịch tại Đồng bằng sông Cửu Long cho biết, giá giảm nhẹ trong tuần này khi các nhà giao dịch chờ nguồn cung mới vụ Đông Xuân. Theo nhà giao dịch trên, trong nửa đầu năm 2024, Philippines, Trung Quốc và Indonesia sẽ vẫn là các thị trường lớn nhất của gạo Việt Nam.

Trong khi đó, giá gạo 5% tấm của Thái Lan được niêm yết với giá từ 655-660 USD/tấn, cao nhất kể từ đầu năm 2008, so với mức từ 646-650 USD/tấn của tuần trước.

Giá gạo của Thái Lan năm 2023 cũng tăng mạnh nhất kể từ đầu những năm 2000, với mức tăng khoảng 41% kể từ đầu năm nay.

Các nhà giao dịch cho rằng giá gạo của Thái Lan tăng là do nhu cầu mạnh từ nước ngoài, đặc biệt là từ Indonesia và Philippines, khi nguồn cung thiếu hụt trước kỳ nghỉ Năm mới.

Cùng với đó, giá gạo đồ xuất khẩu của Ấn Độ tiếp tục tăng trong tuần qua, lên mức cao nhất kể từ tháng 10/2023, do nguồn cung bị thắt chặt và giá chào bán của các nước khác tăng.

Giá gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ đứng ở mức 508 - 515 USD/tấn, so với mức 505 -512 USD/tấn của tuần trước. Trong năm 2023, giá loại gạo này ước đạt tăng mạnh nhất kể từ năm 2004.

Sản lượng gạo của Ấn Độ trong năm nay dự kiến giảm lần đầu tiên trong 8 năm, làm gia tăng khả năng nước này sẽ tiếp tục hạn chế xuất khẩu để kiểm soát giá lương thực.

Về thị trường nông sản Mỹ, giá nông sản tại các hợp đồng kỳ hạn trên Sàn giao dịch hàng hóa Chicago đồng loạt giảm trong phiên 29/12, trong đó giảm mạnh nhất là đậu tương.

Gía ngô giao tháng 3/2024 giảm 3 xu Mỹ, hay 0,63%, xuống 4,7125 USD/bushel. Giá lúa mỳ giao cùng kỳ giảm 3,5 xu Mỹ, hay 0,55%, xuống 6,28 USD/bushel. Giá đậu tương giao tháng 3/2024 giảm 14 xu Mỹ, hay 1,07%, xuống 12,98 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2kg; 1 bushel ngô = 25,4kg).

Điều kiện thời tiết tại Brazil tốt lên là yếu tố tác động chủ yếu đến thị trường kể từ phiên 27/12. Theo công ty nghiên cứu có trụ sở tại Chicago, AgResource, thị trường vẫn biến động lớn trong tháng 1/2024.

Báo cáo của Bộ Nông nghiệp Mỹ công bố ngày 29/12 cho biết xuất khẩu ngô của nước này trong tuần kết thúc vào 21/12 đạt 49 triệu bushel, so với mức 40 triệu bushel của tuần trước đó, trong khi xuất khẩu đậu tương giảm từ 73 triệu bushel xuống 36 triệu bushel và xuất khẩu lúa mỳ giảm từ 12 triệu bushel xuống 10 triệu bushel.

Về thị trường cà phê thế giới, trên sàn giao dịch London phiên 29/12 , giá cà phê Robusta dao động ở mức 3.050-3.157 USD/tấn.

Trong khi đó, giá cà phê Arabica trên sàn New York giao tháng 3/2024 đứng ở mức 194,35 US cent/lb, giảm 1,84% so với phiên trước (1 lb = 0,4535 kg).

Ở trong nước, giá cà phê tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên đến cuối ngày 29/12 tiếp tục tăng mạnh so với phiên trước. Giá bán cà phê dao động trong khoảng 69.200-70.000 đồng/kg, trung bình ở mức 69.800 đồng/kg.

Tại tỉnh Lâm Đồng, giá cà phê nhân xô sau khi tăng 1.100 đồng/kg trong phiên giao dịch 29/12, hiện giá bán đã tăng lên 69.200 đồng/kg.

Theo dự báo, năm 2024 sẽ có nhiều thông tin trái chiều tác động đến giá càphê toàn cầu. Quý 1 năm 2024, giá càphê Robusta và Arabica được dự báo duy trì ở mức cao do tâm lý lo ngại nguồn cung thiếu hụt, khi mức tồn kho thấp nhất trong 12 năm trở lại đây.

Trong báo cáo mới nhất của Bộ Nông nghiệp Mỹ, ước tính tồn kho cà phê Robusta thế giới trong niên vụ 2023/2024 ở mức 26,5 triệu bao (loại 60 kg), giảm 16,7% so với báo cáo trước đó và giảm 4% so với ước tính của niên vụ 2022/2023./.