Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu chè trong tháng 6/2023 đạt 9,7 nghìn tấn, trị giá 17,1 triệu USD, giảm 21,1% về lượng và giảm 24,1% về trị giá so với tháng 6/2022. Giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 6/2023 đạt 1.771 USD/tấn, giảm 3,8% so với tháng 6/2022.
Tiếp theo là xuất khẩu tới thị trường Đài Loan (Trung Quốc) đạt 6,1 nghìn tấn, trị giá 9,9 triệu USD, giảm 44,6% về lượng và giảm 55,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Thị trường Đài Loan có nhu cầu nhập khẩu lớn mặt hàng chè để tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, bởi đây là thị trường đóng vai trò trung gian để xuất khẩu sang các thị trường Âu, Mỹ và Đông Á. Tuy nhiên, lạm phát toàn cầu, áp lực tăng lãi suất kéo dài và nhu cầu người tiêu dùng tiếp tục suy yếu khiến nhập khẩu chè của thị trường Đài Loan từ Việt Nam giảm mạnh.
Chủng loại chè của Việt Nam chủ yếu là chè xuất thô trong chế biến thực phẩm sử dụng các nguyên liệu trà như trà sữa, bột matcha, nên trị giá không cao. Do đó, để gia tăng trị giá xuất khẩu, cần nâng cao chất lượng chè, nếu sản phẩm đạt chất lượng tốt, cơ hội cho chè Việt Nam tại thị trường Đài Loan là rất lớn.
Chè xuất khẩu tới thị trường Nga đạt 3,6 nghìn tấn, trị giá 6,1 triệu USD, giảm 14,3% về lượng và giảm 19% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022; tới Trung Quốc đạt 2,1 nghìn tấn, trị giá 5,1 triệu USD, giảm 14,3% về lượng và giảm 5,6% về trị giá.
Đáng chú ý, xuất khẩu chè tới thị trường Iraq 6 tháng đầu năm 2023 ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao cả về lượng và trị giá, đạt 3,2 nghìn tấn, trị giá 4,8 triệu USD, tăng 37,1% về lượng và tăng 19,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Cùng với Iraq, xuất khẩu chè sang thị trường Malaysia tăng trưởng 1,9% về lượng và 0,8% về giá trị so với cùng kỳ. Còn tại thị trường Ấn Độ, xuất khẩu chè sang thị trường này giảm 6,8% về lượng nhưng tăng 1,2% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Ở chiều ngược lại, tại thị trường Ả rập Xê út, xuất khẩu chè sang thị trường này tăng 5,5% về lượng nhưng lại giảm 7,6% về giá trị.