Nỗ lực để tái mù chữ không xuất hiện trở lại

Sau 80 năm thống nhất đất nước, nước ta có tỷ lệ người dân biết chữ nằm trong nhóm cao nhất khu vực. Tuy nhiên, có một thực tế đáng lo ngại là nguy cơ tái mù chữ đang xuất hiện trở lại ở một số vùng sâu, vùng xa.
image-2025-12-08t155459812-1765184127.jpg
Thiếu tá Lò Văn Thoại, Đồn Biên phòng Nậm Lạnh, xã Sốp Cộp, tỉnh Sơn La và lớp học xóa mù chữ cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Ở Lâm Đồng, nhiều phụ nữ dân tộc H’Mông và K’Ho đã quá nửa đời người mới lần đầu ngồi vào bàn học; còn tại bản Kẻm Đôn (Nghệ An), cụ Vi Văn Xiến, đã ngoài 80 tuổi vẫn ngày ngày vận động các thành viên trong gia đình đi học chữ “để sửa lại những điều bố mẹ còn dang dở”.

Trên quy mô quốc gia, bức tranh xóa mù chữ của Việt Nam tiếp tục đạt độ “phủ sóng” rộng và ổn định. Tỷ lệ biết chữ ở nhóm tuổi 15-35 đạt 99,39% (mức độ 1 - tương đương đã học đến lớp 3 tiểu học) và 98,97% (mức độ 2 - tương đương hoàn thành chương trình tiểu học); nhóm tuổi 15-60 đạt lần lượt 99,10% và 97,72%.

Cả 34/34 tỉnh, thành phố đã được công nhận đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 1; 26/34 đạt mức độ 2 (76,5%). Riêng giai đoạn 2020-2023, cả nước huy động được 79.280 người tham gia lớp xóa mù chữ, trong đó gần 75% là đồng bào dân tộc thiểu số thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia 1719.

Những con số ấy phản ánh năng lực điều phối bền bỉ của hệ thống chính trị và hiệu lực của khung pháp lý: Nghị định 20/2014/NĐ-CP, Thông tư 07/2016/TT-BGDĐT, Thông tư 33/2021/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về chương trình xóa mù chữ; cùng các văn bản định hướng ở tầm chiến lược như Nghị quyết 29-NQ/TW (2013) của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, và đặc biệt là Chỉ thị 29-CT/TW của Bộ Chính trị, ngày 5/1/2024, yêu cầu chú trọng “xóa mù chữ chức năng”, duy trì bền vững kết quả xóa mù chữ trong bối cảnh chuyển đổi số.

Việt Nam cũng đang thực thi cam kết quốc tế trong SDG4 - bảo đảm cơ hội học tập suốt đời cho mọi người. Dù đạt nhiều thành tựu, công tác xóa mù chữ đang bước vào một khúc quanh nhiều thách thức.

Ở nhiều vùng dân tộc, nguy cơ tái mù chữ đang trở lại: tiếng mẹ đẻ chi phối đời sống, còn tiếng Việt dễ phai sau vài tháng.

Đây là dạng mù chức năng mà Chỉ thị 29-CT/TW của Bộ Chính trị đã cảnh báo, biết chữ nhưng không dùng được chữ để tiếp cận công nghệ, pháp luật hay dịch vụ công. Kinh tế mùa vụ khiến lớp học mong manh.

Thiếu tá Lò Văn Thoại, Đồn Biên phòng Nậm Lạnh, xã Sốp Cộp, tỉnh Sơn La chia sẻ: “Có hôm lớp chỉ còn 5 người, nhưng càng ít thì tôi càng phải dạy. Vì nếu bỏ dạy, họ sẽ ngại mà không quay lại”.

Cơ sở vật chất nhiều điểm lớp còn tạm bợ; giáo viên phần lớn kiêm nhiệm, không biết tiếng dân tộc, trong khi học viên lớn tuổi cần phương pháp riêng. Học liệu song ngữ thiếu, nội dung chưa gắn với sinh kế.

Dữ liệu dân cư biến động khiến nhiều nơi mở lớp không đúng đối tượng. Trong bối cảnh ấy, lực lượng biên phòng giữ vai trò nòng cốt, đã xóa mù chữ cho hơn 70.000 người, vận động 50.000 học sinh quay lại trường, xóa 40 bản trắng giáo dục, duy trì hơn 30 lớp thường xuyên với 700 học viên.

Chương trình “Nâng bước em tới trường” hỗ trợ 3.000 học sinh, đưa 383 em theo học đến bậc đại học, cao đẳng. “Muốn dân học chữ thì trước hết phải giúp họ yên ổn cái bụng”, Thiếu tá Lò Văn Thoại nói.

Trước những thách thức ngày càng rõ rệt, xóa mù chữ cần được nhìn bằng một tầm nhìn mới, không chỉ dừng lại ở đọc-viết, mà phải trở thành quá trình kiến tạo năng lực sống trong thời đại số.

Chỉ thị 29-CT/TW của Bộ Chính trị đã xác định rõ yêu cầu chuyển từ “xóa mù chữ cơ bản” sang “xóa mù chữ chức năng”, coi đây là nền tảng để thực hiện phân luồng, giảm nghèo bền vững, củng cố an ninh biên giới và xây dựng xã hội học tập đến năm 2030.

Điều này cũng phù hợp với mục tiêu của SDG4 - bảo đảm mọi người đều có cơ hội học tập suốt đời. Những chuyển động từ chính sách sẽ chỉ có ý nghĩa khi được đưa vào đời sống thực. Câu chuyện ở Khu Kinh tế-Quốc phòng Kỳ Sơn (Nghệ An) là một minh chứng.

Nơi đây, tỷ lệ nghèo gần 75%, đồng bào dân tộc chiếm gần 99%, điều kiện vô cùng gian khó. Cán bộ phải “cùng ăn, cùng ở, cùng làm”, để người dân tin và theo học chữ.

Nhờ vậy, 22 lớp được duy trì, 648 người biết chữ, và nhiều gia đình rủ nhau đi học để “không bị lừa ký giấy tờ nữa”. Khi con chữ gắn với quyền lợi và sự an toàn của người dân, nó trở thành một phần của sinh kế, chứ không còn là một nhiệm vụ giáo dục thuần túy.

Tại tỉnh An Giang, nơi lớp học đặt giữa thánh đường, Giáo cả và Sư cả tham gia đứng lớp, cả cộng đồng Chăm và Khmer cùng học.

Trong lớp học nhỏ giữa Thánh đường Nhơn Hội (An Giang), người phụ nữ ngoài 60 tuổi run run tập viết những nét chữ đầu tiên, và ánh mắt bà sáng lên khi đọc được mấy chữ trên tấm biển báo giao thông-không phải chuyện hiếm ở những vùng sâu, vùng xa. “Biết chữ một chút thôi cũng thấy mình lớn lên rồi”, cô giáo Trần Thị Ngọc Dung nói.

Và cứ thế, con chữ bén rễ vì nó chạm đến cấu trúc văn hóa và niềm tin cộng đồng. Bài học ở đây không chỉ là phương pháp, mà là triết lý: Giáo dục chỉ bền lâu khi hòa vào đời sống.

Từ những điểm sáng ấy, có thể thấy sức mạnh thật sự của xóa mù chữ không chỉ nằm ở số lượng lớp học mà còn ở những đổi thay trong chính từng con người.

Khi một người dân vùng cao viết được tên mình, biết tính tiền bán hàng, đọc được hướng dẫn dùng thuốc hay mở tài khoản ngân hàng để nhận hỗ trợ, thì đó không chỉ là thành công của một chương trình giáo dục mà đó là sự trưởng thành của một quốc gia đang mở rộng cánh cửa năng lực cho từng công dân.

Trong kỷ nguyên số, “biết chữ” không chỉ là đọc-viết, mà phải là khả năng sử dụng chữ để làm chủ kỹ thuật, hiểu chính sách, giao dịch điện tử, tiếp cận tri thức và mở rộng sinh kế. Thiếu những năng lực ấy, tái mù chữ sẽ trở thành vòng luẩn quẩn của nghèo đói và tụt hậu.