Đề xuất điều chỉnh thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu

Vũ Xuân Kiên
Bộ Tư pháp đang kiến nghị tăng khung thuế bảo vệ môi trường với xăng, dầu, mỡ nhờn (trừ dầu hỏa) đồng thời áp dụng mức thuế ưu đãi với xăng sinh học.

Đề nghị giữ nguyên mức thuế sàn (mức thuế tối thiểu) như hiện hành nhưng nâng mức trần (mức thuế tối đa)

Cụ thể, Bộ Tư pháp đề xuất sửa đổi khung thuế bảo vệ môi trường theo hướng giữ nguyên mức thuế sàn (mức thuế tối thiểu) như hiện hành nhưng nâng mức trần (mức thuế tối đa) để tạo dư địa điều chỉnh chính sách khi cần thiết. Tuy nhiên trong khung thuế này, mức chi tiết chưa được đề cập.

Đối với dầu hỏa, Bộ Tư pháp đề nghị giữ khung thuế bảo vệ môi trường như hiện hành, vì dầu hỏa là mặt hàng thiết yếu phục vụ đa số người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.

mua-xang-dau20230203095245-1675396628.jpg
Ảnh minh họa

Hiện nay khung thuế bảo vệ môi trường đối nhóm xăng, dầu, mỡ nhờn được quy định là xăng, trừ etanol là 1.000-4.000 đồng/lít; nhiên liệu bay là 1.000-3.000 đồng/lít; dầu diesel là 500-2.000 đồng/lít; dầu hỏa là 300-2.000 đồng/lít; dầu mazut là 300-2.000 đồng/lít; dầu nhờn là 300-2.000 đồng/lít và mỡ nhờn là 300-2.000 đồng/kg.

Mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu (trừ dầu hỏa) đã bằng mức tối đa trong khung thuế.

Tuy nhiên giai đoạn từ 1/8/2020 đến hết 31/12/2023 mức thuế này đối với xăng, dầu, mỡ nhờn được giảm để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trước bối cảnh dịch COVID-19, góp phần kiềm chế lạm phát.

Bộ Tài chính cũng dẫn các nghiên cứu cho thấy so với nhiều nước trên thế giới, tỉ trọng thuế trong giá xăng dầu bán ra của nước ta hiện nay vẫn thấp hơn mức bình quân chung.

Tính toán theo mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu 4.000 đồng/lít đối với xăng và 2.000 đồng/lít đối với dầu diesel, nếu giá dầu thô thế giới trong khoảng từ 90-100 USD/thùng thì tỉ lệ thuế trong giá xăng, dầu khoảng 31% đối với xăng, 18,7% đối với dầu.

Trong khi đó, tỉ trọng thuế trong giá bán xăng dầu ở nhiều nước chủ yếu trong khoảng 40-55% đối với xăng và 35-50% đối với dầu (ngoại trừ một số quốc gia có trữ lượng dầu mỏ lớn có tỉ trọng thấp hơn).

Cũng theo Bộ Tài chính, việc điều chỉnh khung thuế theo định hướng nêu trên sẽ góp phần đảm bảo thuận lợi trong công tác điều hành nhằm chủ động ứng phó khi giá xăng dầu thế giới biến động mạnh.

Phù hợp với xu hướng điều chỉnh tăng thuế đối với các sản phẩm nhiên liệu hóa thạch của các nước để thực hiện cam kết quốc tế về giảm mức phát thải ròng.

Khi giá xăng dầu thế giới tăng cao, để góp phần kiềm chế lạm phát thì thực hiện điều hành mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn ở mức sàn như hiện hành.

Khi phải thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết quốc tế cũng như phải thực hiện biện pháp mạnh để giảm mức thải ròng về “0” vào năm 2050 theo cam kết của Chính phủ tại COP26 thì thực hiện điều chỉnh tăng mức thuế này với xăng, dầu, mỡ nhờn cho phù hợp.

Đề xuất áp dụng mức thuế ưu đãi với xăng sinh học

Để khuyến khích hơn nữa việc sản xuất, nhập khẩu xăng sinh học (sản phẩm ít gây ô nhiễm hơn so với xăng gốc hóa thạch), cơ quan quản lý muốn áp dụng mức thuế ưu đãi cho mặt hàng này.

Hiện Luật thuế chỉ thu thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu mỡ nhờn gốc hóa thạch, không thu thuế với etanol (E100). Với nhiên liệu hỗn hợp chứa nhiên liệu sinh học và gốc hóa thạch như xăng E5 (4-5% etanol) và E10 (9-10% etanol) thì chỉ tính thu thuế theo tỷ lệ xăng gốc hóa thạch.

Tuy nhiên, quy định này theo cơ quan soạn thảo, chưa tạo được sự chênh lệch giá đủ lớn giữa hai loại nên không đủ sức khuyến khích sản xuất, nhập khẩu và sử dụng xăng sinh học thay thế xăng gốc hóa thạch.

Tới cuối tháng 1/2023, mỗi lít xăng E5 có giá 22.320 đồng, thấp hơn 820 đồng so với xăng RON95.

Cơ quan quản lý cho rằng cần quy định mức thuế ưu đãi thấp hơn với xăng sinh học. Bên cạnh đó, cần phân loại thuế bảo vệ môi trường ưu đãi với từng loại xăng sinh học theo tỷ lệ phối trộn etanol, loại xăng có tỷ lệ etanol càng cao thì mức thuế càng thấp.