Kết luận thanh tra mới đây của TTCP đã chỉ ra hàng loạt vi phạm nghiêm trọng, kéo dài trong hoạt động phát hành và sử dụng nguồn tiền từ TPDN riêng lẻ của một doanh nghiệp đầu tư địa ốc phía Nam và 17 công ty con trong giai đoạn 2015 – 2023.
Phạm vi sai phạm của doanh nghiệp và hệ thống công ty con là rất rộng, bao gồm 131 mã TPDN với tổng giá trị phát hành 67.105,54 tỷ đồng. Các vi phạm không chỉ dừng lại ở lỗi hành chính trong hồ sơ, mà còn chạm đến các vấn đề cốt lõi: tính minh bạch của thông tin công bố, việc quản lý và sử dụng dòng tiền, tính hợp pháp của các dự án huy động vốn, và cuối cùng là nghĩa vụ thanh toán đối với trái chủ.
Đáng chú ý, kết luận đã chỉ rõ 05 TCPH thuộc doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong việc sử dụng tiền TPDN, dẫn đến việc khoảng 7.084 tỷ đồng tiền trái phiếu đã được chuyển cho CTCP KD Nhà No.va sử dụng thông qua các giao dịch trung gian, khiến TTCP phải chuyển thông tin vụ việc sang Bộ Công an để tiếp tục xem xét, xử lý.
Các sai phạm ngay từ khâu phát hành và công bố thông tin (CBTT) cho thấy lỗ hổng lớn về quản trị doanh nghiệp, vi phạm các quy định pháp luật hiện hành và làm suy giảm nghiêm trọng tính minh bạch của thị trường TPDN.
Một trong những vi phạm cơ bản nhất nhưng nghiêm trọng nhất là việc CTCP ĐTĐO No.Va phát hành 05 mã trái phiếu năm 2020 với tổng giá trị 2.607 tỷ đồng nhưng không có Báo cáo tài chính hợp nhất năm 2019 được kiểm toán. Đây là sự vi phạm trực tiếp quy định tại Điều 10, Điều 13 Nghị định số 163/2018/NĐ-CP về điều kiện và hồ sơ phát hành TPDN.
Điều kiện về báo cáo tài chính được kiểm toán là nền tảng để nhà đầu tư và cơ quan quản lý đánh giá sức khỏe tài chính của TCPH. Việc cố tình lách hoặc bỏ qua điều kiện này cho thấy ý đồ phát hành trái phiếu một cách vội vã, tiềm ẩn rủi ro về khả năng thanh toán.
Nhóm một doanh nghiệp đầu tư địa ốc phía Nam và các công ty con đã lạm dụng các quy định còn chung chung để phát hành 03 mã trái phiếu năm 2021 với nội dung mục đích phát hành không cụ thể về chương trình, dự án sử dụng vốn.
Công ty TNHH Đầu tư BĐS Unity thiếu nội dung kế hoạch bố trí nguồn thanh toán lãi, gốc trái phiếu trong phương án phát hành.
Doanh nghiệp cũng cung cấp thông tin không chính xác về mục đích phát hành và thiếu thông tin về tình hình nộp ngân sách Nhà nước 3 năm liên tiếp. Công ty TNHH Địa ốc No.va Saigon Royal khai sai thông tin về công ty liên kết và vốn góp của Chủ tịch HĐTV.
Các vi phạm này tập trung vào điểm yếu cố hữu của thị trường TPDN riêng lẻ: tính đối xứng thông tin. Khi mục đích phát hành được ghi nhận mơ hồ như "Tăng quy mô vốn hoạt động", doanh nghiệp có thể dễ dàng chuyển vốn vào các mục đích khác. Điều này đòi hỏi Bộ Tài chính phải sửa đổi Nghị định 153/2020/NĐ-CP theo hướng buộc TCPH phải nêu rõ: chương trình, dự án, hạng mục, khoản nợ cơ cấu tương ứng với giá trị và thời gian sử dụng.
Đặc biệt, dấu hiệu vi phạm pháp luật trong sử dụng tiền trái phiếu: Rủi ro rút vốn và gian lận cho thấy những dấu hiệu thao túng dòng tiền có tổ chức, tiềm ẩn nguy cơ hình sự.
TTCP phát hiện mô hình luân chuyển vốn tinh vi tại 05 TCPH, chủ yếu liên quan đến việc sử dụng vốn để "nhận chuyển nhượng vốn điều lệ của cá nhân" và hợp tác đầu tư vào các dự án BĐS.
| Giao dịch xương sống | Số tiền (tỷ đồng) | Phân tích dấu hiệu vi phạm | 
| Nhận chuyển nhượng vốn của cá nhân (No.Va, Unity, Thành phố Aqua, Lucky House) | 7.084 | Vốn góp của cá nhân (bà Võ Thị Kim Khoa, ông Lê Thanh Liêm) tại công ty con được hình thành từ tiền của CTCP KD Nhà No.va hoặc công ty khác, và được rút đi ngay trong ngày góp vốn. Sau đó, 04 TCPH sử dụng tiền TPDN để "mua" lại phần vốn ảo này, và tiền TPDN cuối cùng lại quay về CTCP KD Nhà No.va sử dụng | 
| Hợp tác đầu tư tại dự án chưa đủ điều kiện (No.Va, Gia Đức) | 3.350 | Tập đoàn N.Va huy động 2.050 tỷ đồng TPDN để hợp tác tại dự án Cù Lao Phước Hưng khi dự án chưa đủ điều kiện huy động vốn (vi phạm Luật Nhà ở 2014). Công ty Gia Đức huy động 1.300 tỷ đồng để đặt cọc mua BĐS tại No.va World Phan Thiết khi dự án chưa đủ điều kiện để bán (vi phạm Luật Kinh doanh BĐS 2014) | 
Toàn bộ 7.084 tỷ đồng tiền TPDN đã được chuyển cho CTCP Kinh doanh Nhà Nova sử dụng, thay vì phục vụ mục đích đầu tư như công bố. TTCP đã nhận định hành vi này "có dấu hiệu phối hợp với các cá nhân... và các pháp nhân khác để hình thành vốn điều lệ của các cá nhân tại các pháp nhân... chuyển tiền TPDN cho các cá nhân sau đó chuyển cho CTCP KD Nhà No.va sử dụng".
Thậm chí đối với các giao dịch hợp tác kinh doanh hợp pháp hơn, 06/18 TCPH đã vi phạm quy định về quản lý vốn TPDN. Các công ty này đã ủy quyền toàn quyền quyết định việc sử dụng tiền TPDN cho bên nhận hợp tác (bên thứ ba) mà không thực hiện trách nhiệm quản lý, giám sát dòng tiền. Dòng tiền sau khi chuyển cho bên hợp tác (ví dụ: Công ty Mũi Yến, Công ty TNHH ĐT BĐS Vương Cung) lại tiếp tục được chuyển cho các tổ chức, cá nhân trung gian khác không rõ mục đích.
Việc thiếu cơ chế "kiểm soát mục đích sử dụng vốn đối ứng" trong các hợp đồng hợp tác kinh doanh đã tạo ra lỗ hổng pháp lý để TCPH "rửa" trách nhiệm quản lý vốn, biến TPDN thành nguồn vốn dễ dàng chuyển hóa nội bộ. TTCP đã kiến nghị Bộ Tài chính và NHNN phải bổ sung quy định TCPH cần có biện pháp quản lý trong trường hợp TPDN được phát hành với mục đích hợp tác với bên thứ hai, nhằm đảm bảo vốn được sử dụng an toàn, đúng mục đích.
Các vi phạm của doanh nghiệp đã gây ra hậu quả trực tiếp và nghiêm trọng đối với nhà đầu tư và sự ổn định của thị trường tài chính.
Tính đến 30/6/2023, nhiều công ty thuộc hệ sinh thái No.Va đã không thanh toán đúng hạn gốc và lãi trái phiếu. Cụ thể, doanh nghiệp nợ quá hạn gốc và lãi 4.817,188 tỷ đồng. CTCP No.va Final Solution nợ quá hạn 546,107 tỷ đồng. Nhiều công ty con cũng nợ lãi quá hạn.
Tổng số tiền nợ gốc, lãi quá hạn của nhóm No.Va và các công ty liên quan lên tới 10.069,368 tỷ đồng, chiếm gần như toàn bộ nợ quá hạn của 67 TCPH được thanh tra, cho thấy mức độ rủi ro tập trung cao độ.
Cùng với đó, tài sản bảo đảm công cụ bảo vệ cuối cùng cho nhà đầu tư, cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro khi nhiều TSBĐ của doanh nghiệp và một công ty con (là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà) chưa được đăng ký giao dịch bảo đảm, vi phạm Nghị định 102/2017/NĐ-CP. Điều này làm TSBĐ không có hiệu lực pháp lý đối kháng với bên thứ ba.
TSBĐ của Công ty Gia Đức là "quyền và lợi ích phát sinh từ thỏa thuận mua 293 BĐS nghỉ dưỡng tại Nova World Phan Thiết". TTCP nhận định TSBĐ này không xác định được.
Việc nợ quá hạn hàng nghìn tỷ đồng, đi kèm với các dấu hiệu lạm dụng, chuyển vốn nội bộ và TSBĐ không chắc chắn, tạo ra hiệu ứng domino về tâm lý trên thị trường. Rủi ro pháp lý chuyển từ nhà đầu tư cá nhân sang cơ quan công quyền, gây áp lực lên các cơ quan thực thi pháp luật và làm suy giảm niềm tin vào kênh huy động vốn TPDN.
Vụ việc này là một ví dụ điển hình cho thấy sự lạm dụng có tổ chức đối với kênh huy động vốn TPDN riêng lẻ, biến kênh này từ nguồn lực phát triển thành công cụ luân chuyển vốn thiếu minh bạch.
Từ đó, TTCP đã thực hiện các bước xử lý quyết liệt như chuyển hồ sơ các TCPH có dấu hiệu vi phạm trong sử dụng tiền TPDN sang Bộ Công an để tiếp tục điều tra làm rõ. Kiến nghị UBCKNN xử phạt vi phạm hành chính đối với các TCPH vi phạm quy định CBTT, sử dụng vốn sai mục đích. Chỉ đạo Cục Thuế kiểm tra việc chấp hành pháp luật về thuế đối với các doanh nghiệp có liên quan đến hợp đồng mua bán, chuyển nhượng.
TTCP cũng đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính và NHNN sửa đổi các văn bản pháp luật, nhằm bịt kín các lỗ hổng đã bị doanh nghiệp lợi dụng.
Cụ thể, Sửa đổi Nghị định 153/2020/NĐ-CP theo hướng phải nêu rõ từng mục đích sử dụng (chương trình, dự án, khoản nợ cơ cấu) tương ứng với giá trị và thời gian sử dụng. Quy định cụ thể biện pháp quản lý khi TCPH hợp tác với bên thứ hai, ngăn chặn việc ủy quyền toàn quyền sử dụng vốn.
Yêu cầu Bộ Tài chính phối hợp với NHNN hướng dẫn TCTD mở sổ/tài khoản theo dõi riêng nguồn vốn từ TPDN để tránh tình trạng hòa lẫn vào vốn kinh doanh chung.
Chỉ đạo rà soát, kiểm tra việc nhận và quản lý TSBĐ, đảm bảo đăng ký giao dịch bảo đảm đúng quy định.
Vụ việc này là lời cảnh tỉnh về sự phát triển nóng và thiếu kiểm soát của thị trường TPDN. Việc điều tra, xử lý nghiêm minh các dấu hiệu vi phạm pháp luật sẽ là chìa khóa để tái thiết niềm tin, loại bỏ các thành phần yếu kém và hướng thị trường TPDN Việt Nam phát triển theo hướng lành mạnh, minh bạch và bền vững.
 
 
     
                                                             
                                                             
                                                             
                             
                             
                             
                             
                             
                             
                             
                             
                            