Trong lịch sử loài người, tầng lớp doanh nhân đã xuất hiện từ rất sớm, khi nghề thủ công tách ra khỏi trồng trọt, chăn nuôi và nhu cầu trao đổi hàng hóa phát triển. Khi đó, doanh nhân chủ yếu là những người làm nghề buôn bán, tức là chuyên về hoạt động thương mại.
Đến thế kỷ XVII-XVIII, công nghiệp và thương nghiệp phát triển, khái niệm doanh nhân được mở rộng sang các lĩnh vực khác như sản xuất, kinh doanh, tài chính...
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học - công nghệ và quá trình mở rộng giao thương quốc tế, xuất hiện các doanh nghiệp, tập đoàn lớn, thì doanh nhân được xem là người tổ chức và điều hành các doanh nghiệp.
Ở Việt Nam trước đây, theo cách hiểu dân gian, người làm nghề kinh doanh thường là làm nghề buôn bán, do đó xuất hiện khái niệm “thương nhân” gắn với mối ác cảm về một tầng lớp “buôn gian, bán lận”. Phải đến thời kỳ Pháp thuộc, khi xã hội bắt đầu hình thành các quan hệ trao đổi hàng hóa tư bản chủ nghĩa thì khái niệm doanh nhân mới được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả sản xuất, buôn bán và dịch vụ.
Đến nay, “doanh nhân” đã trở thành một khái niệm phổ biến trong các văn bản hành chính, chính trị, học thuật cũng như trong cuộc sống thường ngày.
Với tính chất cạnh tranh gay gắt “thương trường là chiến trường”, “cá lớn nuốt cá bé”, ở những giai đoạn tích lũy tư bản ban đầu, doanh nhân thường bị xem là những người có nhiều thủ đoạn, lắm mưu mô, chỉ chăm lo làm giàu, đặt lợi nhuận lên trên hết, sẵn sàng chà đạp lên văn hóa, đạo lý, tình người...
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, sự nâng cao dân trí và yêu cầu hội nhập quốc tế, nhân tố văn hóa ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Văn hóa doanh nhân trở thành linh hồn của văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp thường tỷ lệ thuận với văn hóa doanh nhân. Các doanh nhân xuất sắc thường có khả năng truyền niềm tin, cảm hứng cho các thành viên khác, làm thay đổi tư duy, tạo nên sức sống cho văn hóa doanh nghiệp.
Từ khi đất nước chuyển sang phát triển kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao vai trò của đội ngũ doanh nhân. Nếu các doanh nghiệp là xương sống của nền kinh tế, thì doanh nhân là thuyền trưởng chèo lái các con tàu doanh nghiệp. Để thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng mà Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra, vấn đề xây dựng văn hóa doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế càng cần được coi trọng.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa doanh nhân, nhưng về cơ bản có thể hiểu văn hóa doanh nhân là tập hợp những giá trị, chuẩn mực, quan niệm và hành vi của doanh nhân trong quá trình lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp. Nói một cách đơn giản, văn hóa doanh nhân là văn hóa của người làm nghề kinh doanh; mục tiêu của doanh nhân là làm giàu, nhưng văn hóa doanh nhân giúp họ làm giàu có văn hóa. Một số ý kiến còn cô gọn hơn, cho rằng văn hóa doanh nhân chỉ cần hội đủ bốn yếu tố: Tâm, Tài, Trí, Đức.
Dù có thể kinh doanh ở các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, có các xuất phát điểm khác nhau, nhưng văn hóa doanh nhân về cơ bản bao gồm bốn hợp phần như sau: năng lực doanh nhân, tố chất doanh nhân, đạo đức doanh nhân và phong cách doanh nhân.
Năng lực doanh nhân trước hết thể hiện ở khả năng hoạch định, tổ chức, điều hành doanh nghiệp. Năng lực đó biểu lộ rõ nhất ở khả năng hoạch định chiến lược phát triển doanh nghiệp và các kế hoạch cụ thể để thực thi chiến lược.
Để làm được điều đó, bằng cấp, kiến thức, trình độ chuyên môn chỉ là nền tảng ban đầu. Doanh nhân phải không ngừng học hỏi, cọ xát, bổ sung kiến thức, phấn đấu hoàn thiện mình. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, doanh nhân phải có khả năng tìm hiểu thị trường quốc tế, nắm rõ các luật định quốc tế, sản xuất được những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Doanh nhân phải không ngừng trau dồi kỹ năng quản trị để giúp doanh nghiệp đứng vững trong cơ chế kinh tế thị trường hiện đại, tăng cường vị thế và khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
Thời đại số, công nghệ số và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đòi hỏi đội ngũ doanh nhân Việt Nam phải không ngừng đổi mới sáng tạo, cập nhật sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ, hướng tới chuyển đổi số.
Tố chất doanh nhân bao gồm những yếu tố tâm lý, thể chất, nhân cách đặc thù phù hợp với hoạt động sản xuất, kinh doanh như: có đam mê kinh doanh, khát vọng làm giàu, khát khao thành đạt, có đầu óc tính toán, dám phiêu lưu, mạo hiểm, chấp nhận rủi ro, có khí phách, cá tính quyết liệt…
Bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay với sự cạnh tranh khốc liệt và biến động khó lường của thị trường, các doanh nhân Việt Nam phải có ý chí vươn lên khẳng định vị thế của thương hiệu, hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế.
Muốn vậy, họ phải là những người dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với mọi thử thách. Những doanh nhân như Phạm Nhật Vượng, Nguyễn Thị Phương Thảo, Trịnh Văn Quyết, Mai Kiều Liên… chỉ là một số trong nhiều ví dụ về tinh thần không ngừng đổi mới sáng tạo, dám thử sức ở những lĩnh vực mới, dám vươn ra những thị trường mới, chinh phục những đỉnh cao mới của doanh nhân Việt Nam.
Trong bối cảnh thế giới có nhiều bất ổn, rủi ro với thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh…, doanh nhân phải có sự nhạy bén, linh hoạt, phản ứng nhanh, đồng thời có sự tự tin, độc lập, quyết đoán. Những doanh nhân thành đạt thường là những người biết đứng dậy từ thất bại, nhiều khi phải làm lại từ đầu để hướng tới những thành công mới. Do vậy, họ thường là những người có ý chí kiên cường, tinh thần bền bỉ, sự tập trung cao độ và sức chịu đựng áp lực tốt.
Đạo đức doanh nhân đòi hỏi bên cạnh những yêu cầu chung về đạo đức đối với một người bình thường, doanh nhân phải có những chuẩn mực đạo đức đặc thù của người làm sản xuất, kinh doanh.
Ngoài những phạm trù đạo đức cơ bản như: lương tâm, nghĩa vụ, nhân phẩm, danh dự, uy tín…, họ phải thực hiện những yêu cầu về đạo đức gắn với nghề nghiệp. Làm giàu cho mình phải đi đôi với làm giàu cho người lao động, cho xã hội và đất nước. Cạnh tranh nhưng không làm hại đến sức khỏe, quyền lợi của người tiêu dùng như làm hàng giả, hàng nhái, thực phẩm bẩn... Đóng thuế cho Nhà nước nhiều, nhưng phải đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái, có trách nhiệm xã hội, tham gia các hoạt động hỗ trợ cộng đồng, từ thiện, nhân đạo… Bước vào sân chơi của thị trường quốc tế, doanh nhân Việt Nam phải đặc biệt tuân thủ luật pháp quốc tế, đảm bảo chữ tín trong kinh doanh.
Trước những yêu cầu nghiêm ngặt của thị trường thế giới, càng hội nhập quốc tế, yêu cầu về đạo đức kinh doanh càng được đặt ra, tránh những “thẻ vàng”, “thẻ đỏ” mà các tổ chức quốc tế đã cảnh báo đối với hàng hóa Việt Nam gần đây.
Phong cách doanh nhân được thể hiện trong tác phong, lối sống, hành vi ứng xử của doanh nhân. Điều đó được bộc lộ không chỉ trong quá trình lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp, trong thái độ ứng xử với nhân viên, đối tác, khách hàng, mà cả trong cuộc sống thường ngày, trong quan hệ với gia đình và xã hội. Không ít doanh nhân đã tạo nên một ấn tượng xấu trong mắt dư luận bởi phương châm “tôi có tiền, nên tôi có quyền”.
Hiện tượng “đại gia và kiều nữ”, trọc phú giàu về tiền nhưng nghèo về văn hóa, những CEO nổi tiếng lên mạng xã hội văng tục, chửi bậy, xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác không phải là hiếm.
Do vậy, để hội nhập quốc tế thành công, doanh nhân thời đại mới phải biết kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống và tiếp thu các giá trị văn minh, tiến bộ của nhân loại mà hoàn thiện mình. Người ta nói kinh doanh vừa là một nghề, vừa là khoa học và nghệ thuật. Nghệ thuật lãnh đạo, quản lý và văn hóa giao tiếp, ứng xử giúp cho doanh nhân tạo dựng được hình ảnh tốt, ấn tượng đẹp, niềm tin và uy tín trong công việc và các mối quan hệ xã hội.
Tựu trung, để có thể “sánh vai các cường quốc năm châu”, chúng ta rất cần có một thế hệ doanh nhân mới với những năng lực, tố chất, đạo đức, phong cách phù hợp tiệm cận với chuẩn mực thế giới, đáp ứng yêu cầu của hội nhập và phát triển.