Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Người không chỉ là lãnh tụ thiên tài, nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, mà còn là nhà giáo dục lớn của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người sáng lập, đặt nền móng và chỉ đạo xây dựng nền giáo dục cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo của đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo là sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo trên nền tảng giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, của triết lý giáo dục phương Đông, của những tư tưởng tiến bộ thời kỳ cận hiện đại; nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái tạo nên sự phát triển về chất trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ những tiền đề trên, cùng với quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng sinh động và phong phú của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm sâu sắc, tiến bộ và khoa học về vai trò, mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục.
Tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, có thể khái quát tư tưởng của Người về xây dựng, phát triển giáo dục và đào tạo trong chế độ mới xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng nền giáo dục độc lập và tiến bộ, lấy mục tiêu phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân làm nền tảng.
Trong những năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc lên án mạnh mẽ chính sách ngu dân của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam. Trong tác phẩm nổi tiếng “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), Người viết: “Nhân dân Ðông Dương khẩn khoản đòi mở trường học vì trường học thiếu một cách nghiêm trọng... “Làm cho dân ngu để dễ trị”, đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất”[1].
Tháng 2.1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong Chánh cương vắn tắt của Ðảng, Nguyễn Ái Quốc chủ trương phổ thông giáo dục theo công nông hóa. Ðặc biệt, “Chương trình Việt Minh” do Nguyễn Ái Quốc soan thảo vào tháng 9.1941 chủ trương: “Hủy bỏ nền giáo dục nô lệ. Gây dựng nền quốc dân giáo dục. Cưỡng bức giáo dục từ bực sơ học. Mỗi dân tộc có quyền dùng tiếng mẹ đẻ trong nền giáo dục dân tộc mình. Lập các trường chuyên môn huấn luyện chính trị, quân sự, kỹ thuật để đào tạo các lớp nhân tài... Khuyến khích và giúp đỡ nền giáo dục quốc dân làm cho nòi giống ngày thêm mạnh”[2].
Các mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đời; cùng với đó, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sinh một nền giáo dục mới. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục và hệ thống giáo dục mới của nước nhà không chỉ có “nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”[3], để “xứng đáng với độc lập tự do, giúp sức cho độc lập tự do” mà còn “nhằm dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà”. Với tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân thực hiện tham gia bình dân học vụ để diệt gặc dốt; quyết định thành lập Nha Bình dân học vụ, ký nhiều sắc lệnh liên quan đến giáo dục,… nhằm triển khai nền giáo dục mới “toàn dân, toàn diện, thiết thực” vì sự phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt coi trọng giáo dục thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của nước nhà. Ngay khi đất nước vừa giành được độc lập, trong “Thư gửi cho học sinh” nhân ngày khai trường, ngày 5.9.1945, Người viết: “Một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”[4]. Người chú trọng dạy cho học sinh lòng yêu nước: “Cốt nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”[5]. Người khẳng định chỉ có lòng yêu nước, thương nòi mới thúc đẩy mọi người học tập, phấn đấu, mới hết lòng phụng sự nhân dân. “Học bây giờ với học dưới chế độ thực dân phong kiến khác hẳn nhau. Bây giờ phải học để: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu đạo đức…Học để phụng sự ai? Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh”[6].
Thứ hai, nội dung giáo dục phải toàn diện, cụ thể và thiết thực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng phương châm giáo dục toàn diện, cụ thể và thiết thực. Theo Người, nền giáo dục mới phải thực hiện phương pháp dạy và học mới để đạt được mục tiêu “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”[7]. Tư tưởng này không chỉ phản ánh truyền thống quý báu của dân tộc ta mà còn phản ánh yêu cầu vừa cấp bách, vừa lâu dài của đất nước trong tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phương châm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất. Đây là những nhiệm vụ giáo dục hết sức cơ bản, gắn bó chặt chẽ với nhau, làm nền tảng cho sự phát triển con người Việt Nam mới. Nhà trường phải bảo đảm cho thế hệ trẻ vươn lên làm chủ kho tàng kiến thức văn hóa của nhân loại, trang bị đầy đủ vốn hiểu biết về văn hóa, tri thức khoa học, công nghệ…
Thứ ba, giáo dục và đào tạo phải luôn quán triệt phương châm “học đi đôi với hành”,“lý luận liên hệ với thực tiễn”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phương châm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa là phải kết hợp “học với hành, lý luận liên hệ với thực tiễn”: “Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy”[8]. Ngày 21.10.1964, khi đến nói chuyện với giảng viên, sinh viên Trường Đại học sư phạm Hà Nội, Người nói: “Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”[9]. Người phê phán lối học vẹt, học mà không hành, chỉ biết lý luận suông mà không thực hành. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở lý luận phải liên hệ với thực tế, học đi đôi với hành. Lý luận là những điều được tổng kết từ thực tiễn nhưng lý luận chỉ là lý luận suông nếu nó không được thâm nhập trở lại vào thực tiễn.
Ngày 6.5.1950, nói chuyện tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Học lý luận không phải để nói mép, nhưng biết lý luận mà không thực hành là lý luận suông. Học là để áp dụng vào việc làm. Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp. Có lý luận thì mới hiểu được mọi việc trong xã hội, trong phong trào để chủ trương cho đúng, làm cho đúng”[10]. Tầm quan trọng của lý luận và sự cần thiết phải học tập lý luận được Hồ Chí Minh khẳng định nhiều lần trong các bài nói, bài viết. Người nghiêm khắc phê phán bệnh coi thường lý luận, tình trạng kém và thiếu lý luận, lý luận suông chỉ học thuộc lòng để đem lòe thiên hạ. Người lưu ý, lý luận phải đem ra thực hành, thực hành phải theo lý luận: “Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế”[11].
Thứ tư, học tập là công việc thường xuyên, liên tục và diễn ra suốt đời.
Với tinh thần học, học nữa, học mãi, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi học tập là công việc thường xuyên, liên tục và diễn ra suốt đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tấm gương mẫu mực về tinh thần học tập suốt đời. Thông qua con đường tự học và hoạt động thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến đỉnh cao của trí tuệ và văn hóa để từ Người ra đi “tìm đường” trở thành người “dẫn đường” cho cả dân tộc; từ một người yêu nước, một người cộng sản trở thành một nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại. Với Người, nguyên lý học và phương thức học được tóm gọn trong mấy câu sau: “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học ở dân”.
Đối với học sinh, thanh niên, Người luôn căn dặn chỉ có không ngừng học tập thì mới tiến bộ mãi. Đối với các thầy cô giáo, Người không quên nhắc nhở phải không ngừng học tập để bồi bổ kiến thức mà dạy cho học sinh ngày một tốt hơn. Đối với những người mới biết chữ, những người lao động cần phải học thường xuyên, học những cái cần thiết cho cuộc sống hiện tại để họ có thể sống tốt hơn. Đối với cán bộ chủ chốt, cán bộ lãnh đạo thì cần phải học thường xuyên, học tâp suốt đời. Khi đến dự khai mạc lớp nghiên cứu chính trị ở Trường Đại học Nhân dân, ngày 21.7.1956, Người chỉ dạy: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời… Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi, thế giới ngày nay đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ. Cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến kịp nhân dân”[12].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo trong chế độ mới xã hội chủ nghĩa là tài sản vô giá, là bài học xuyên suốt, là kim chỉ nam để Đảng và Nhà nước ta kế thừa và vận dụng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển giáo dục, đào tạo trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm “giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”[13]. Đảng ta xác định nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, sau hơn 35 năm đổi mới đất nước, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng. Chất lượng giáo dục và đào tạo từng bước được nâng lên, hệ thống giáo dục quốc dân tiếp tục được hoàn thiện, mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo tiếp tục được mở rộng ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học. Vai trò, vị trí các cơ sở giáo dục, nhất là giáo dục đại học trong hệ thống dần được khẳng định, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm được đề cao; chất lượng đào tạo từng bước được cải thiện, hệ thống chương trình đã được đổi mới, chú trọng phát triển các phẩm chất, năng lực cho học sinh; phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực cũng được chú trọng. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên được đẩy mạnh... Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế các khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong giáo dục và đào tạo. Hợp tác quốc tế được tăng cường theo hướng chủ động, tích cực đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành giáo dục, cũng như yêu cầu phát triển bền vững, hội nhập quốc tế của đất nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Cụ thể là: “Đổi mới tư duy, hoạt động giáo dục và đào tạo còn chậm, chưa quyết liệt, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; một số nhiệm vụ, giải pháp đổi mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn định. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo chưa cao… Nội dung, chương trình giáo dục và đào tạo còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo vẫn thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động. Chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và kỹ năng người học… Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, trên một số mặt vẫn còn bất cập về chất lượng, số lượng, cơ cấu và chính sách đãi ngộ. Quản lý nhà nước và quản lý - quản trị nhà trường còn nhiều hạn chế…”[14].
Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, trước hết các cơ quan chức năng, các cấp quản lý giáo dục và đội ngũ nhà giáo cần thực hiện tốt một số nội dung giải pháp cơ bản sau:
Một là, đổi mới tư duy và cơ chế quản lý giáo dục, nội dung chương trình, mô hình đào tạo và phương pháp dạy học, theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học.
Đổi mới tư duy và cơ chế quản lý giáo dục, nội dung chương trình, mô hình đào tạo và phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá ở các cơ sở đào tạo theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ. Nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với từng đối tượng học sinh, sinh viên. Tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân, phát huy giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại: “Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thòng và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[15].
Hai là, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước về giáo dục và đào tạo.
Tăng cường phối hợp đồng bộ, chặt chẽ và có hệ thống giữa các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan, đoàn thể, sự phối hợp gia đình - nhà trường - xã hội trong hoạt động đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Hoàn thiện và triển khai cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương trong quản lý Nhà nước về giáo dục theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền gắn với trách nhiệm. Phát huy dân chủ, xây dựng mối quan hệ đoàn kết giữa thầy với thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa nhà trường với nhân dân, chú trọng các phong trào thi đua để tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh.
Nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục và đào tạo. Xây dựng và hoàn thiện chiến lược quản lý chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực, cơ chế, chính sách tuyển dụng, quy trình tuyển chọn, bố trí, phân công nhiệm vụ, đánh giá và đãi ngộ lực lượng làm công tác giáo dục và quản lý giáo dục. Nâng cao hiệu quả việc quản lý tài chính, phân bổ nguồn lực, bảo đảm dân chủ, khách quan trong giáo dục và đào tạo. Đổi mới cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin trong quản lý giáo dục và đào tạo. Thực hiện quản lý theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục và quy hoạch phát triển nhân lực của từng ngành, địa phương trong từng giai đoạn phù hợp tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông nhằm nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục ở các cấp.
Ba là, chú trọng công tác xây dựng, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục.
Xây dựng đội ngũ nhà giáo có phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe, bản lĩnh chính trị vững vàng, đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới. Xây dựng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải trên cơ sở đánh giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. “Đổi mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ, chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt. Sắp xếp, đổi mới căn bản hệ thống các cơ sở đào tạo sư phạm, thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách và giải pháp để cải thiện mức sống, nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”[16].
Bốn là, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo, tăng cường các nguồn lực đầu tư phát triển giáo dục.
Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo, tăng cường các nguồn lực đầu tư phát triển giáo dục, đa dạng hóa các loại hình giáo dục và đào tạo trên cơ sở quản lý thống nhất của Nhà nước, tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá, giám sát hoạt động giáo dục, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng và quản lý quá trình đào tạo. Xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục và đào tạo. Thực hiện cơ chế người học tham gia đánh giá hoạt động giáo dục; nhà giáo tham gia đánh giá cán bộ quản lý; cơ sở giáo dục, đào tạo tham gia đánh giá cơ quan quản lý Nhà nước. Tổ chức tốt, thực chất công tác thi đua khen thưởng, tạo động lực cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên, học sinh thi đua dạy tốt, học tốt. Nhân rộng những mô hình giáo dục và đào tạo hiệu quả trong nước, nghiên cứu chọn lọc áp dụng một số mô hình giáo dục và đào tạo của thế giới vào nhà trường, góp phần thúc đẩy sự phát triển của giáo dục và đào tạo nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
5. Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2020), Luật Giáo dục năm 2019, Nxb Lao động, Hà Nội.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.107-108.
[2] Hồ Chí Minh, Sđd, tập 3, tr.629-630.
[3] Hồ Chí Minh, Sđd, tập 4, tr.7.
[4] Hồ Chí Minh, Sđd, tập 4, tr.34.
[5] Hồ Chí Minh, Sđd, tập 5, tr.102.
[6] Hồ Chí Minh, Sđd, tập 6, tr.467.
[7] Hồ Chí Minh, Sđd, tập 5, tr.684.
[8] Hồ Chí Minh, Sđd, tập 6, tr.361.
[9] Hồ Chí Minh, Sđd, tập 14, tr.402.
[10] Hồ Chí Minh, Sđd, tập 6, tr.357.
[11] Hồ Chí Minh, Sđd, tập 11, tr.94.
[12] Hồ Chí Minh, Sđd, tập 10, tr.377.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tr.136.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.82-83.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.136-137.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.138-139.