Kỹ sư Công ty TNHH Phần mềm FPT lập trình các sản phẩm công nghệ số (Khu công nghệ cao Hòa Lạc, Hà Nội). (Ảnh KHÁNH AN) |
Đây cũng là ngành có thế mạnh xuất khẩu, phù hợp với năng lực, đặc thù cũng như định hướng ưu tiên phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, quy định pháp luật lĩnh vực này được xây dựng từ gần 20 năm trước, khi công nghệ thông tin mới manh nha phát triển, hiện tại không xử lý được nhiều vấn đề phát sinh trong thực tiễn.
Luật Công nghiệp công nghệ số cần được nghiên cứu, xây dựng để kịp thời bổ sung, thể chế hóa đầy đủ chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước, nhằm tạo cơ chế khuyến khích đủ mạnh để phát triển công nghệ số trở thành ngành công nghiệp nền tảng, góp phần đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Khoảng trống pháp lý
Công nghệ số là sự phát triển tiếp theo của công nghệ thông tin với sự xuất hiện hàng loạt công nghệ mới như 5G, IoT, AI, Big Data, Cloud, Blockchain. Đây là các công nghệ mang tính đột phá, tác nhân chính tạo ra chuyển đổi số và kinh tế số, lại xuất hiện trong thời điểm Việt Nam đã đạt được những bước phát triển nhất định cho nên có điều kiện chủ động tham gia, tận dụng để bứt phá vươn lên.
Những năm qua, công nghệ số đã cách mạng hóa hầu hết mọi khía cạnh trong cuộc sống, thay đổi cách chúng ta giao tiếp, làm việc, học tập, giải trí và truy cập thông tin.
Công nghệ số giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đổi mới sáng tạo và toàn cầu hóa, nhưng cũng phát sinh hàng loạt thách thức mới như khoảng cách số, mối lo ngại về quyền riêng tư hay đe dọa an ninh mạng.
Tuy vậy, trong Luật Công nghệ thông tin ban hành năm 2006 lại chưa có khung pháp lý định hình khái niệm công nghệ số cũng như công nghiệp công nghệ số. Bên cạnh đó, với dân số gần 100 triệu người, Việt Nam là thị trường lớn để nuôi dưỡng và phát triển các doanh nghiệp công nghệ số trong nước, nhưng pháp luật hiện hành cũng chưa quy định biện pháp đột phá để phát triển thị trường trong nước cho doanh nghiệp công nghệ số, nhất là các doanh nghiệp công nghệ số vừa và nhỏ.
Đáng chú ý, một lĩnh vực đặc thù đang kỳ vọng sẽ có sự phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới tại Việt Nam là vi mạch bán dẫn, cũng chưa có cơ chế xứng tầm để tăng tốc. Đây là một sản phẩm phần cứng điện tử, thuộc ngành công nghiệp công nghệ số, là hạt nhân của các công nghệ tương lai như AI, 5G/6G, IoT,… và được ứng dụng trong nhiều sản phẩm kỹ thuật số như điện thoại thông minh, ô-tô.
Nhu cầu về vi mạch bán dẫn dự kiến sẽ tăng gấp hai lần trong 10 năm tới, các quốc gia lớn trên thế giới và khu vực đều có chính sách riêng cho ngành công nghiệp này, phù hợp đặc thù và vị trí quốc gia đó trong chuỗi giá trị vi mạch toàn cầu. Do đó, Việt Nam cũng cần có quy định riêng để thúc đẩy lĩnh vực quan trọng này.
Bộ Thông tin và Truyền thông khẳng định, muốn đưa Việt Nam trở thành quốc gia công nghiệp công nghệ số phát triển, việc xây dựng Luật Công nghiệp công nghệ số là hết sức cấp bách.
Việc thể chế hóa quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển công nghiệp công nghệ số sẽ giúp khắc phục những hạn chế, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để thực hiện các cơ chế vượt trội, đột phá; huy động mọi nguồn lực, phát triển hiệu quả tiềm năng ngành công nghiệp công nghệ số, góp phần đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số-xã hội số.
Đưa công nghệ số trở thành ngành mũi nhọn
Ngày 8/6 vừa qua, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết bổ sung dự án Luật Công nghiệp công nghệ số vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025. Dự kiến, luật này sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2024) và thông qua vào kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2025). Hiện tại dự thảo Luật đã được Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành để lấy ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp.
Bà Nguyễn Minh Hằng, đại diện Ban soạn thảo Luật cho biết: Luật Công nghiệp công nghệ số được soạn thảo nhằm khẳng định giá trị pháp lý của công nghiệp công nghệ số, đồng thời hướng tới đề xuất các chính sách đột phá nhằm thúc đẩy phát triển cũng như hạn chế những rủi ro nếu có trong hoạt động của ngành.
Văn bản quy phạm pháp luật này cũng thúc đẩy thông minh hóa các ngành công nghiệp qua việc đưa công nghệ số thâm nhập, hội tụ vào các ngành, lĩnh vực, mang lại các giá trị mới, tạo ra cuộc cách mạng về thông minh hóa.
Mặt khác, Luật Công nghiệp công nghệ số còn tập trung vào việc chuyển dịch các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam chủ yếu từ lắp ráp, gia công sang sáng tạo, thiết kế, tích hợp, sản xuất và làm chủ công nghệ lõi; tạo thị trường và thúc đẩy phát triển sản phẩm công nghệ số thiết kế, sản xuất trong nước.
Ngoài ra, trong bối cảnh công nghiệp bán dẫn đang trở thành ngành công nghiệp chủ chốt có ảnh hưởng đến sự phát triển về kinh tế và bảo đảm an ninh-quốc phòng của mọi quốc gia, dự thảo Luật dự kiến quy định một số chính sách đặc biệt cho phát triển công nghiệp bán dẫn nhằm kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn đón đầu làn sóng dịch chuyển đầu tư khi rất nhiều tập đoàn toàn cầu lớn quan tâm đầu tư vào lĩnh vực này tại Việt Nam.
Đó là các ưu đãi đầu tư đặc biệt cho các dự án đầu tư mới hoặc mở rộng; cơ chế về đối ứng đầu tư, hỗ trợ đầu tư để thu hút các dự án lớn, có tính lan tỏa trong lĩnh vực công nghiệp vi mạch bán dẫn; cơ chế đặc thù tuyển dụng các chuyên gia, nhân tài trong lĩnh vực bán dẫn; cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ chiến lược phát triển bán dẫn cho doanh nghiệp công nghệ số chủ lực trong nước; cơ chế hỗ trợ chuyển giao công nghệ, mua bán sáp nhập các công ty công nghệ trong và ngoài nước;…
Góp ý cho dự thảo, nhiều ý kiến cho rằng Luật mới nên tập trung nhiều cho hai mảng chính sách lớn là ưu đãi đầu tư và cơ chế cấp phép thử nghiệm. Bộ Thông tin và Truyền thông cần đưa ra các ưu đãi ở mức cao nhất bởi đây là những ngành ưu tiên phát triển, mở ra trong giai đoạn này.
Ông Nguyễn Quang Đồng (Viện Nghiên cứu chính sách và Phát triển truyền thông, thuộc Hội Truyền thông số Việt Nam - VDCA) đề xuất, Chính phủ cần thúc đẩy áp dụng cơ chế quản lý thử nghiệm và cơ chế tự quản dựa trên tiêu chuẩn cộng đồng/ngành được thừa nhận rộng rãi cho các mô hình kinh doanh mới, ứng dụng các công nghệ mới vào đời sống tại Việt Nam.Trong ngắn hạn, một cơ chế thử nghiệm hữu ích và khả thi là chia sẻ dữ liệu giữa khu vực công với khu vực tư nhân để doanh nghiệp có thể khai thác hiệu quả và tối đa giá trị kinh tế của dữ liệu.